Chương 174: Chương 22

Ba ngày ròng rã họ lang thang giữa những mỏm đá trơ trụi nóng bỏng, bị cơn khát dày vò. Họ không đi đêm nữa, để tránh một tai nạn tương tự trong đêm tối. Vùng này ít dân, nhưng vào ngày thứ hai, hai tên Maroc đang chăn cừu trên các triền núi cỏ mọc um tùm bỗng gọi họ. Chúng nghi ngờ nhìn đám người rách tả tơi có cả một phụ nữ đi cùng và một người Do Thái mặc áo dài đen. Colin Paturel hét to lên rằng họ đi về Meliani. Hai tên chăn cừu kinh ngạc kêu lên. Tại sao đi Meliani mà phải trèo qua núi, chứ không đi qua thung lũng gần hơn. Ở đấy đường đi dễ hơn kể từ khi Mulai Ismail cho bọn nô lệ da đen sửa sang lại. Họ có lạc đường không, hay họ là kẻ cướp, hay, lạy Chúa, họ là nô lệ Cơ đốc chạy trốn? Nói đến đây hai tên chăn cừu cười ầm lên, nhưng đột nhiên họ biến sắc mặt và thì thầm với nhau, mắt vẫn dán vào đoàn lữ hành bên kia khe núi.

- Đưa chiếc cung cho tôi, Jean - Colin Paturel nói - còn Piccinino thì đứng trước mặt tôi để chúng không nhìn thấy tôi đang làm gì.

Bỗng hai tên Maroc kêu rống lên và đâm đầu chạy. Nhưng những mũi tên của Colin bắn trúng lưng chúng, và chúng lăn xuống dốc dựng, trong khi lũ cừu hoảng sợ lao vào khe núi.

- Chúng chỉ cần t

hổi tù và báo động là cả dân làng sẽ ùa ra đón chúng ta ở đầu thung lũng.

Họ vẫn hết sức cảnh giác. Họ nhìn thấy con đường do hai tên chăn cừu chỉ, nhưng không thể theo đường đó được. Chỉ cần có người nhìn thấy quần áo tả tơi, thân xác mệt nhoài, vẻ mặt lo lắng của họ là lộ ngay tung tích. Họ phải tiếp tục đi qua vách đá tàn nhẫn dưới ánh nắng thiêu đốt và bầu trời xanh biếc khiến cho các mỏm đá nom giống như những khúc xương trắng khổng lồ. Lưỡi họ rộp lên vì khát, chân họ rớm máu. Đến tối họ nhìn thấy một khe nước lấp lánh dưới chân vách đứng. Mặc dù vách đá đứng, họ cũng quyết định tụt xuống để tìm cái cứu sống họ. Khi đến gần khe nước, họ nghe tiếng gầm vang vọng rất to

- Sư tử!

Họ ôm chặt lấy vách đá, trong khi bầy sư tử, bị ném đá xuống kích thích, tiếp tục gầm rú. Angélique nhìn rõ các con vật lông hung hung đi qua đi lại phía dưới chân nàng hơn một mét, khi nàng bám chặt lấy một búi cây bách mà nàng sợ sẽ bật rễ lôi theo nàng xuống vực sâu. Colin Paturel, lúc đó đang ở bên trên nàng một chút, nhìn rõ mặt nàng tái mét và cặp mắt đầy kinh hãi của nàng. Chàng khẽ gọi: “Angélique!”.

Mỗi lần chàng ra lệnh, giọng chàng đanh lại, và không ai dám cưỡng lại.

- Angélique, đừng nhìn xuống dưới! Đừng cử động! Đưa tay cho tôi!

Chàng nhấc bổng nàng lên như nhấc một chiếc lông chim, nàng bấu chặt lấy chàng, áp mặt vào chiếc vai đồ sộ của chàng để xóa đi cảnh tượng khủng khiếp bên dưới. Chàng kiên nhẫn đợi đến khi nàng thôi không run nữa. Rồi lợi dụng giây phút im lặng giữa những tiếng gầm rú inh tai của bầy sư tử, chàng hét to:

- Các bạn ơi, hãy trèo lên đỉnh ngay! Không nên cố mà làm gì!

- Nhưng còn nước uống thì sao? Jean-Jean rên rỉ.

- Cứ đi mà lấy nếu cậu có gan làm.

Tối hôm đó Angélique ngồi tách ra khỏi đoàn, trong khi những người kia dựng tạm lều trại quanh một ngọn lửa nhỏ để nướng trên đám than hồng những củ khoai tây dại họ tìm được trong rừng. Nàng tựa đầu vào một mỏm đá và mơ đến thịt nướng, rượu vang và nước suối lấp lánh trong bóng râm cây cọ.

- Tắm - nàng rên rỉ - Cho tôi cái gì uống! Tôi không chịu nổi nữa! Nàng cảm thấy có bàn tay đặt trên đầu nàng, một bàn tay to lớn chỉ Colin mới có. Nàng không còn đủ sức để cử động, nhưng chàng nhẹ nhàng kéo mái tóc nàng để nàng ngẩng lên và nhìn thấy chai nước chàng mang đến cho nàng, chỉ còn vẻn vẹn một chén con dưới đáy. Nàng ngước mắt, thắc mắc>

- Chỗ này dành cho bà - Chàng nói - Chúng tôi giữ lại cho bà. Mỗi người đều góp những giọt cuối cùng của mình. Những giọt nước ấm đối với nàng như những giọt mật hoa. Nàng cảm thấy như được tiếp thêm một sức mạnh bởi sự hy sinh của những con người cục cằn kia.

- Cám ơn! Ngày mai mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn - Nàng nói, cố nhoẻn miệng cười, mặc dù hai môi nàng đã khô nứt.

- Dĩ nhiên rồi! Nếu có ai trong chúng ta vẫn có thể tiếp tục, thì bà sẽ là người trong số đó - Chàng trả lời với một sự tin tưởng mạnh mẽ khiến nàng im lặng tán đồng và tin tưởng ở chàng.

“Và rồi cánh đàn ông sẽ nghĩ rằng ta mạnh hơn họ tưởng” - nàng nghĩ thầm và duỗi dài hai chân trên chiếc giường bằng đá, cảm thấy vững tâm phần nào. Nàng cảm thấy vô cùng đơn độc trong tình trạng mệt nhoài, khổ cực và sợ hãi, cảm thấy như mình đang nằm trong một hầm mỏ hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài. Có phải đây là cảm giác của Dante khi ông xuống Địa ngục? Địa ngục có giống như thế này không? Đúng, đây là Địa ngục, ngoại trừ lòng từ thiện của một chiến hữu dành cho nàng chén nước cuối cùng. Chẳng còn hy vọng! Nhưng giờ đây hi vọng đang le lói. “Một ngày nào đó chúng ta sẽ nhìn thấy những tháp chuông nhà thờ của một thị trấn Cơ đốc giáo nổi bật lên bầu trời đầy sao, một ngày nào đó chúng ta sẽ lại được tự do hít thở, chúng ta sẽ uống…”

Ngày hôm sau họ đi xuống đồng bằng. Lũ sư tử đang ăn ngấu nghiến xác một con ngựa, chứng tỏ họ ở cách khu dân cư không xa. Ngay sau đó họ nghe tiếng chó sủa và lại rẽ ngay về phía núi; nhưng khi nhìn thấy một giếng nước, họ bèn quay lại vùng ngoại ô của một quận có dân cư. May là không có ai quanh quẩn ở đấy. Họ buộc một sợi dây thừng quanh mình Jean-Jean, người gầy gò nhất, và dong xuống đáy giếng với hai bầu đựng nước. họ kéo dây khi nghe cậu ta té nước và kêu ré lên. Cậu ta nôn mửa vì chạm vào xác một con vật ở dưới giếng. Cậu cố cúi xuống uống một ngụm, nhưng nước bị cái xác thối rữa làm ô uế kinh khủng đến nỗi cậu tưởng có thể chết ngay tại chỗ. Suốt ngày hôm đó cậu luôn luôn bị chuột rút, vừa bò vừa lê mới theo kịp đoàn.

Thêm một ngày khủng khiếp nữa, mãi đến chiều tối họ mới thở phào nhìn thấy dòng nước xanh trên thềm một thung lũng nhỏ, nằm dưới bóng những cây vả, lựu và những cây chà là cao ngất ng. Tuy không tin là có thực mà chỉ là một ảo vọng, họ vẫn đi xuống men theo sườn núi thoai thoải. Caloens là người đầu tiên đến nơi. Lão chạy trên lớp sỏi trắng cho đến khi chỉ còn cách dòng nước xanh một mét, thì bỗng một con sư tử cái lao ra và nhảy bổ vào người lão. Colin lao tới và dùng chùy quật mạnh vào đầu, vào lưng con vật. Nó lăn ra giẫy chết.

Hầu tước de Kermoeur thét lên: “Coi chừng, Colin!” Tiếng hét của ông bị một tiếng gầm dữ dội át đi. Ông rút gươm ra, lao tới giữa một con sư tử đực bờm nâu và Colin Paturel, lúc đó đang quay lưng về phía con vật, vừa mới từ trong bụi rậm phóng ra. Lưỡi kiếm đâm xuyên con vật ở vùng tim, nhưng trước khi chết nó còn kịp xé toạc bụng hầu tước và lôi ruột ông ra trên bãi cát. Cái ốc đảo mê hồn này trong phút chốc đã trở thành một cảnh tàn sát, nơi mà máu người và vật trộn vào nhau thành một dòng máu làm bẩn hết hố nước trong veo. Colin tay cầm chùy đứng chờ xem còn con sư tử nào nữa không, nhưng chốn này đã trở lại yên tĩnh.

- Bố trí mỗi hướng một người gác, giáo mác sẵn sàng! - Đoạn Colin cúi xuống bên Hầu tước de Kermoeur.

- Chiến hữu, anh đã cứu sống tôi!

Đôi mắt của hầu tước đã đờ đẫn.

- Vâng, tâu bệ hạ - ông thở gấp - Ảo vọng của ông bị mờ đi khi các kỷ niệm xưa cũ trở về.

- Tâu bệ hạ, ở Versailles…Versailles - và khi nhắc đến địa điểm xa xôi và huy hoàng ấy, ông trút hơi thở cuối cùng.

Caloens vẫn còn sống, nhưng vai của lão đã bị xé đi một mảng thịt, lòi cả xương:

- Nước - lão lẩm bẩm - Nước!

Colin nhúng bầu vào dòng nước mà họ đã chiếm được bằng một giá rất đắt, và đưa sát môi lão. Trong khi đó những người khác tuy bị cơn khát dày vò kinh khủng vẫn đứng đờ người thậm chí không nghĩ tới chuyện đến gần hố nước.">

- Đi mà uống đi, đồ ngu! - Colin Paturel quát lên giận dữ.

Đây là lần thứ hai chàng phải vuốt mắt một chiến hữu mà chàng thề là sẽ đưa đến tự do. Chàng có cảm giác là mình còn phải thực hiện nghi thức này một lần nữa.

Họ tìm ra hang ổ của đôi sư tử dưới một dàn cây leo, nơi có xác một con linh dương đã bị chúng ăn hết một nửa. Họ khiêng người bị thương đến đấy và đặt lên cỏ khô. Colin dùng chỗ rượu mạnh còn lại lau sạch các vết thương và băng bó thật cẩn thận. Gì thì gì, chàng phải đợi xem ông lão phản ứng như thế nào đối với việc điều trị. Lão đủ mạnh để hồi phục sức khỏe và có lẽ sẽ hồi phục. Nhưng họ có thể lãng phí thời gian bao lâu nữa ở chốn này, nơi mà nước mát trong sẽ cuốn đi cả thú dữ lẫn người. Thủ lĩnh đếm trên đầu ngón tay số ngày còn lại trước khi họ hi vọng đến được ốc đảo Cebon. Ngay cả nếu họ lên đường tối hôm ấy, họ cũng sẽ muộn mất hai ngày và thậm chí họ không thể tính đến khả năng đó trong tình trạng nguy kịch của Caloens lúc này. Chàng quyết định ở lại đêm đó. Họ phải chôn cất Hầu tước de Kermoeur và suy nghĩ về việc sắp phải làm. Dẫu sao mọi người đều cần phải nghỉ ngơi, và hôm sau họ có thể quyết định. Đêm đến, Angélique quyết định chui ra khỏi hang sư tử. Cả nỗi sợ hãi đối với thú dữ lẫn nỗi đau khổ khi nghe tiếng thở như rống lên của lão Caloens cũng không làm nguôi khát vọng của nàng được đắm mình trong hố nước. Những người trong đoàn đã lần lượt thưởng thức niềm hoan lạc được tắm mát. Trong thời gian đó nàng đã ở lại bên giường ông lão bị thương.

Caloens cứ luôn mồm gọi nàng với cái giọng vòi vĩnh của một người đàn ông cường tráng trong đau đớn đã trở thành đàn bà. Lão tìm ở nàng sự âu yếm của người mẹ biết lắng nghe và thông cảm những lời rên rỉ của đứa con.

- Cô gái ơi, hãy cầm tay tôi. Đừng bỏ tôi nhé, cô gái bé bỏng.

- Cháu ở đây kia mà, cụ ơi.

- Cho tôi xin thêm chút nước ngon lành kia nào.

Nàng rửa mặt cho lão và cố gắng làm cho lão thật thoải mái trên chiếc giường rơm. Tình trạng của lão mỗi l một xấu đi.

Colin Paturel phân phát chiếc bánh cuối cùng. Lúc này Angélique đang lần bước trong bóng tối, vì trăng chưa ló khỏi lùm cây. Trước mắt nàng hố nước nom tựa một tấm gương, mặt nước chỉ hơi gợn sóng lăn tăn quanh dòng suối róc rách đang đổ vào. Thỉnh thoảng tiếng ếch ộp và tiếng cào cào làm xao động cái im lặng ban đêm. Nàng trút bỏ bộ quần áo đầy mồ hôi và cát bụi, thở phào khoan khoái rồi chuồi người vào dòng nước mát lạnh, chưa bao giờ nàng có một cảm giác tuyệt diệu như lúc này. Sau khi đã dầm mình thỏa thích, nàng giặt hết quần áo, trừ chiếc áo nàng đang choàng quấn quanh người để khỏi lạnh, chờ cho gió nồm hong khô những chiếc kia. Trong khi chờ đợi nàng gội đầu cho sạch cát, và xổ tóc trên tay.

Trăng lên từ sau lùm cây để lộ một dòng nước bạc chạy xuống vách đá đen từ một ngọn suối bên trên. Angélique trèo lên một hòn đá phía dưới suối và để cho làn nước giá lạnh chảy trên toàn thân thể nàng. Nước hẳn là một trong những sản vật đáng yêu nhất của Thượng đế! Nàng nhớ lại tiếng rao của những người bán nước khắp các đường phố Paris: “Ai mua nước lã ra mau! Trong bốn nguyên tố đứng đầu là đây!”

Nàng ngẩng lên trìu mến ngắm nhìn các vì sao đang lấp lánh sau những tàu lá cọ như những chiếc lược dài. Những giọt nước mắt giỏ xuống tấm thân lõa lồ của nàng, và dưới ánh trăng mờ nàng nhìn thấy rõ thân hình nàng phản chiếu trong hồ nước trong như một pho tượng cẩm thạch giữa các gợn sóng lăn tăn. “Ta vẫn sống - nàng nhủ thầm - Vẫn sống!”. Mỗi phút giây qua lại xóa nhòa đi một ký ức về cuộc chiến đấu hao hơi tổn sức nàng đã trải qua. Nàng cứ đứng im như thế cho đến lúc một tiếng cành khô gẫy rắc trong bụi cây. Nàng giật mình chú ý lắng nghe. Chỉ đến lúc ấy nỗi sợ mới trở lại với nàng. Nàng nhớ lại lũ dã thú chờ mồi, và bọn người Maroc hiểm độc. Cảnh trí thanh bình một lần nữa lại biến thành bãi chiến trường ghê rợn, trên đó nàng và đồng đội đã phấn đấu bao nhiêu ngày đêm ròng rã. Nàng hụp mình xuống nước để đi qua bên kia bờ, đinh ninh có cái gì đó đang theo dõi nàng từ trong bụi rậm. Cảnh sống như một con thú bị săn đuổi đã khơi dậy trong nàng cái bản năng tự bảo tồn, và từ xa nàng có thể cảm thấy sự hiểm nguy. Nàng khoác vội chiếc áo choàng quanh người và cứ thế chân không dép chạy qua các lùm cây leo và những bụi xương rồng đầy gai nhọn. Nàng đâm sầm vào một dáng người chắc nịch, khẽ kêu lên và cố chạy lùi về phía sau sợ hết vía. Rồi dưới ánh trăng nàng nhận ra chòm râu vàng của Colin Paturel và đôi mắt chàng ánh lên trong hố mắt sâu.

- Bà điên hay sao thế Chàng hỏi giọng đều đều. Bà tắm một mình đấy à? Bà không biết là lũ sư tử sẽ đến uống nước ở đây sao? Cả báo nữa, chưa kể một tên Maroc lang thang nào đó?

Angélique muốn bám chặt lấy bộ ngực vạm vỡ của chàng để làm dịu bớt cơn hoảng sợ, nhất là sau những phút giây thư giãn nàng vừa được hưởng. Nàng sẽ không bao giờ quên niềm hạnh phúc tuyệt vời dưới thác nước, trong cái ốc đảo thần tiên này. Thiên đàng chắc hẳn là thế.

Nhưng giờ đây nàng trở lại với thế giới con người với biết bao nhiêu hiểm nguy, nơi nàng phải chiến đấu để tồn tại.

- Người Maroc? - nàng nói giọng run run - Tôi cho rằng chúng đang ở phía bên suối kia. Cách đây một phút có cái gì đấy đang nhìn tôi, tôi quả quyết là như vậy.

- Tôi đấy. Tôi ra đi tìm bà khi nhận thấy bà vắng hơi lâu. Thôi, đến đây với tôi và đừng làm điều gì điên rồ nữa, nếu không thì chắc chắn, cũng như tên tôi là Colin Paturel, tôi sẽ tự tay bóp chết bà.

Giọng nói của chàng có pha chút mỉa mai, nhưng chàng không nói đùa. Nàng tin rằng chàng thật sự có thể bóp cổ nàng, hay đánh cho nàng chừa cái tính phóng khoáng. Vừa rồi Colin Paturel cảm thấy máu trong người như lạnh giá khi chàng phát hiện người nữ chiến hữu đã lẻn đi và không trở lại. Một sự khủng hoảng nữa, chàng nghĩ thầm, lại thêm một lỗ huyệt phải đào! Ôi, Chúa công minh, sao người nỡ ruồng bỏ con! Chàng lặng lẽ đi theo bờ nước như một kẻ nô lệ lang thang trong đêm tối. Và ở đó chàng nhìn thấy nàng dưới dòng suối bạc, tóc xõa phủ kín đôi vai như tóc một nàng tiên cá, tấm thân ngà ngọc của nàng phản chiếu trong dòng nước trong suốt như pha lê. Angélique bước theo sau chàng, lòng buồn bực khi nghĩ rằng chắc hẳn chàng đã nhìn thấy nàng suốt thời gian nàng tắm bên dưới ánh trăng. Chàng là một con người thiếu học, đối với nàng, chàng chẳng có chút tình cảm nào khác ngoài sự khinh thường của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, xem nàng như một gánh nặng phải miễn cưỡng gánh thêm. Nàng không thể không cảm thấy oán giận chàng về thái độ của chàng, bởi vì chàng chịu trách nhiệm về sự cách ly mà nàng đã ngoan ngoãn thực hiện đối với những người kia, chỉ gần gũi họ để chăm sóc, băng bó vết thương. Cảm giác mình bị cô độc và bị bỏ rơi càng làm cho nàng khó khăn hơn trong việc chịu đựng gian khổ. Có lẽ chàng đã làm đúng khi áp đặt việc ấy, nhưng chàng quá nghiêm khắc và hách dịch khiến nàng gần như chết khiếp. Sự cân bằng hoàn mỹ về lòng dũng cảm của chàng về cả hai mặt tinh thần và thể xác hình như là một sự quở trách đối với tính dao động, sự mảnh mai yếu đuối, tính dễ kích động và đa cảm đàn bà của nàng. Cặp mắt xanh sắc nhọn của chàng như xuyên suốt tâm can nàng, luôn luôn phát hiện nỗi kinh hoàng, sự mệt mỏi hay sự cẩu thả của nàng. Và hình như chàng khinh bỉ nàng vì những khuyết tật đó. “Chàng khinh bỉ ta như con chó bécgiê khinh bỉ một con cừu cái ngờ nghệch” - Nàng nghĩ thầm.

Nàng lại đến ngồi cạnh chiếc đệm rơm của Caloens, nhưng mắt nàng không rời khỏi thân hình ngồi nghiêng của thủ lĩnh nổi bật bên ngọn đèn tù mù. Colin đang vẽ trên cát sơ đồ con đường mà họ sẽ theo và giảng giải cho anh chàng người Venice, Jean-Jean và anh chàng xứ Basque đang cúi xuống nhìn qua vai chàng.

- Các bạn sẽ dừng ở bìa rừng. Nếu nhìn thấy một chiếc mùi xoa đỏ treo trên cành cây lie thứ hai thì hãy tiến lên và hú như tiếng cú mèo. Anh chàng Do Thái sẽ từ trong bụi bước ra…

- Cô gái có đấy không? - Giọng yếu ớt của Caloens vẳng lại - Đưa tay cho lão. Trước đây lão có một đứa con gái nhỏ. Nó lên mười khi lão đi biển cách đây hai mươi năm. Bây giờ chắc nó bằng cô. Tên của nó là Marijke.

- Cụ ơi, cụ sẽ gặp lại cô ấy mà.

- Không đâu. Thần chết sẽ đòi tôi trước tiên. Như thế thì tốt hơn. Marijke sẽ làm gì với một ông bố già đánh cá như tôi, sau hai mươi năm nô lệ trở về làm bẩn những viên gạch lát nhà bếp của nó và quấy rầy nó với những câu chuyện về miền đất đầy ánh nắng mặt trời. Như thế thì tốt hơn. Lão vui lòng được ngủ giấc ngàn năm trên đất Maroc. Lão cứ nghĩ đến khu vườn ở Meknès, nó sẽ thấy thiếu lão biết chừng nào, cứ nghĩ rằng mãi mãi chẳng bao giờ lão nhìn thấy lại Mulai Ismail phi ngựa như điên, hệt như cơn thịnh nộ của Thượng đế. Lẽ ra lão nên đợi đến ngày Mulai Ismail bổ đôi sọ của lão với chiếc gậy của hắn.

Ba anh chàng người Paris, Venice, và xứ Basque chuẩn bị lên đường lúc tảng sáng. Colin Paturel ra hiệu bảo Angélique đến bên chàng.

- Tôi sẽ ở lại với ông cụ - chàng nói - chúng ta không thể đưa lão theo, và cũng không thể bỏ lão lại. Tôi sẽ đợi ở đây. Những người kia phải tiếp tục đi kẻo lỡ hẹn với Rabbi Maimoran. Sau khi gặp anh ta, họ sẽ biết phải làm gì. Bà muốn đi cùng với họ hay theo sau?

- Tôi sẽ làm theo lệnh của ông.

- Thế thì bà nên ở lại. Họ đi nhanh hơn mà thời gian kíp lắm. Angélique gật đầu và định trở lại bên giường người ốm, nhưng Colin Paturel ngăn nàng lại, như thể hối hận về thái độ không thân thiện của mình.- Vả lại tôi cho rằng Caloens cần có bà bên cạnh, để lão thanh thản ra đi. Nhưng nếu bà muốn đi…

- Tôi sẽ ở lại.

Họ chia nhau lương thực và các mũi tên. Colin Paturel giữ lại chiếc cung, một bao đựng tên, chiếc chùy, một la bàn và thanh kiếm của Hầu tước de Kermoeur.

Ba người lên đường sau khi dừng lại một lát bên mộ người quý tộc xứ Breton. Không ai nói gì với Caloens cả, vì lão cứ yếu dần. Lão cứ nói mê bằng tiếng miền Flandre và níu chặt tay của Angélique với sức lực lạ kỳ của người hấp hối. Rồi sức lực đã suy tàn của lão bỗng trở lại như một dòng lũ khi lão ngồi dậy sau một đêm quằn quại. Colin Paturel phải dùng hết sức lực để ngăn lão, vì lão cứ lăn xả vào đánh nhau kịch liệt với chàng như đánh nhau với Thần chết.

- Mi không tóm được ta đâu - Lão luôn mồm thét lên - Mi không mang ta đi được đâu!

Đột nhiên lão tuồng như nhận ra khuôn mặt đối diện với lão.

- A, Colin, cậu bé của ta - lão nói bằng một giọng yếu ớt - Đến giờ lên đường rồi, phải không?

- Vâng, ông bạn già ơi, đúng thế. Nào đi! - Chàng ra lệnh bằng một giọng chắc nịch.

Thế rồi với sự tin cậy của một đứa bé, lão thở hắt ra trong vòng tay người bạn của mình.

Cơn hấp hối của lão làm Angélique hoang mang tột độ. Và giờ đây nàng thút thít khóc khi nhìn cái đầu hói của lão gục vào bộ ngực của Colin Paturel như thể chàng là con trai lão. Chàng vuốt mắt cho lão và khoanh tay trước ngực.

- Giúp tôi khiêng lão ra ngoài kia - Chàng bảo Angélique - Huyệt của lão đã đào sẵn rồi. Chúng ta phải nhanh tay lên…Rồi sau đó lên đường. Hai người chôn lão cạnh Hầu tước Kermoeur, và vội vàng lấy cỏ khô lấp huyệt. Angélique muốn dựng hai chữ thập, nhưng Colin cấm nàng không được làm thế.

- Bọn Maroc đi qua đây sẽ biết có người Cơ đốc giáo vừa được chôn cất, và sẽ đuổi theo chúng ta.

Thế là họ lại tiếp tục đi qua những làng mạc bàng bạc ánh trăng. Sau hai ngày nghỉ ngơi tại ốc đảo, Angélique tin chắc rằng Colin Paturel sẽ không chê trách được nàng vì nàng bị tụt hậu, nhưng mặc dù cố gắng hết sức nàng vẫn không đi kịp những bước chân dài của chàng, và thỉnh thoảng lại thấy chàng dừng lại ngoái cổ nhìn nàng, cái dáng sừng sững như một pho tượng Hec quyn, trên vai vác chiếc chùy gỗ. Nàng cũng náo nức muốn đuổi kịp toán người đi trước, vì họ ít ra cũng đi như người bình thường, chứ không nhanh như các anh hùng trong chuyện thần kỳ.

“Có bao giờ con quỷ sứ ấy cảm thấy mệt không? Nàng nghĩ thầm - Chàng có bao giờ sợ một thứ gì không? Chàng có bao giờ có cảm xúc gì trong thể xác và tâm hồn không?”

Nàng đã nhận định từ trước rằng chàng là một kẻ thô lỗ bẩm sinh, và giờ đây cuộc hành trình chỉ có hai người này đã xác định điều đó. Nhưng họ đi nhanh quá đến mức chiều tối hôm sau họ đã đến được rìa khu rừng lie, chỗ hẹn với Rabbi. Ngã tư đường, nơi rễ cây ngăn cách thành đụn, hiện ra trước mặt họ. Colin Paturel ra lệnh dừng chân. Cặp mắt chàng nheo lại, và nàng ngạc nhiên thấy chàng đăm đăm nhìn mặt trời, lúc đó đột nhiên sẫm lại vì một đàn chim mồi từ các ngọn cây từ từ bay lên. Hẳn là những người mới đến đã quấy rầy chúng. Sau khi lượn quanh khu rừng mấy vòng chúng quay trở về mặt đất, nghển những cái cổ dầy lông lá, rồi sà xuống quanh một cây lie cành lá nhô ra đường. Thế là Angélique nhận ra cái gì đã cuốn hút chúng.

- Anh nhìn hai người bị treo cổ kia kìa - Nàng nói bằng một giọng nghẹn ngào. Colin Paturel đã nhìn thấy">

- Đó là hai người Do Thái. Nhìn hai chiếc áo dài đen tôi nhận ra ngay. Hãy ở lại đây, còn tôi, tôi sẽ lần vào sát hơn để thám thính. Gì thì gì, không được rời khỏi đây!

Nàng trải qua những giây phút chờ đợi hãi hùng. Bầy chim mồi tiếp tục vỗ cánh và chốc chốc lại bay vụt đi và kêu the thé. Nàng đoán có chuyện gì xảy ra, nhưng không biết gì cả. Đột nhiên Colin Paturel xuất hiện phía sau nàng.

- Thế nào?

- Một người Do Thái tôi không quen biết, chắc là Rabbi Maimoran. Người kia là…. Jean-Jean.

- Ôi, lạy Chúa! - Nàng thét lên, đưa hai bàn tay lên che mặt.

Thế này thì quá lắm. Sự thất bại hoàn toàn của cuộc chạy trốn hầu như không tránh khỏi. Những người Cơ đốc giáo đã sa vào cái bẫy cài sẵn để tóm gọn họ tại nơi hẹn hò này.

- Tôi nhận ra một khu dân cư bên phải chúng ta, cái làng Maroc đã treo cổ hai người. Có lẽ anh chàng Venetia và Jean d’Harrosteguy vẫn còn ở đó, đang bị xiềng xích, tôi sẽ đi đến đó.

- Điên à?

- Tôi phải tìm mọi cách. Tôi đã tìm ra một cái hang ngay gần đây, trên núi. Bà nấp ở đây và đợi tôi.