Chương 173: Chương 21

Mặt trời đang lặn làm bừng lên những ráng đỏ như lửa. Những người chạy trốn đưa ánh mắt mỏi mệt nhìn đồi núi biến dần vào màu xanh êm dịu như nhung lượn lờ hai bên như những dòng sông mà họ đang khao khát.

- Chúng tôi khát lắm, Colin.

- Các bạn hãy kiên nhẫn nào! Những ngọn núi chúng ta sắp leo qua có nhiều khe sâu, nơi đó có bóng râm giữ cho các dòng suối khô cạn. Trước tối ngày mai chúng ta chắc chắn sẽ tìm ra được cái gì để uống cho đỡ khô họng. Đối với những kẻ đang chết khát điều đó quá xa vời, nhưng họ cũng đành phải kiên nhẫn chờ đến lúc lời tiên đoán trên trở thành hiện thực. Colin cho mỗi người một cái hạt của loại cây mọc trong lòng Châu Phi mà bọn cảnh vệ da đen của Mulai Ismail vẫn nhai khi hành quân xa. Nó có vị đăng đắng, nhưng phải ngậm trong mồm càng lâu càng tốt, vì nó có tác dụng tăng lực và giảm nhẹ những cơn đau thắt do đói khát. Đêm vừa xuống là họ lại lên đường. Chẳng mấy chốc họ lại vất vả leo lên những vách đá mà ngay cả ban ngày cũng khó mà leo nổi. Trăng mờ không soi rõ lối đi. Có lúc họ phải cầm tay nhau, dắt nhau qua một đoạn đường đá mấp mô, rồi lại tiếp tục cuộc hành trình. Họ đi rất chậm. Thỉnh thoảng họ lại đạp vào một vài hòn đá trên đường. Chúng lăn theo vách đứng và rơi xuống đáy đánh rầm một tiếng giữa đêm khuya thanh vắng. Không khí ngày càng lạnh. Nó làm khô mồ hôi trên mình họ, nhưng khiến họ run lên dưới lớp quần áo ướt đẫm. Colin đi trước dẫn đường nhiều lần phải dừng lại, bật đá lửa xem thử mình đang ở đâu. Việc làm này rất nguy hiểm, vì người Arập ở đồng bằng có thể nhìn thấy ngọn lửa ở trên vách đá và đoán được trên đó có người. Càng đi Angélique càng cảm thấy ngạc nhiên về khả năng chịu đựng của mình. Nàng cho đó là tác dụng hạt côla nàng đang nhai. Nàng đi theo những áo choàng trắng của các chiến hữu phía trước nàng, và cố gắng không bị bỏ xa quá phía sau. Bỗng nhiên nàng nghe có tiếng như núi lở. Một cái gì lăn qua bên nàng và bị bóng tối nuốt chửng. Rồi một tiếng thét quái dị và tiếng vang đánh bịch đưa lên từ vực sâu thăm thẳm. Nàng bấu vào một tảng đá nhô ra bên đường, sợ quáám tiến hay lùi. Nàng nghe giọng người Basque thét lên:

- Colin, có người vừa rơi.

- Ai?

- Không biết.

- Cô gái à?

Hai hàm răng Angélique đánh lập cập, lưỡi nàng cứng lại.

- Angélique! - Thủ lĩnh thét to, tin chắc cô gái thiếu kinh nghiệm đã rơi xuống vực. “Mình thật là ngu ngốc, tại sao không để nàng đi cùng Caloens, ông lão có đôi bàn chân vững chãi của một kẻ leo núi già dặn. Mình cứ để nàng tự xoay sở lấy một mình. Và bây giờ…”

- Angélique! - Chàng gầm lên, như thể tiếng vọng của giọng chàng có thể cứu được tai họa khủng khiếp kia.

Thế rồi, như một điều thần diệu, Angélique bật ra lời. “Có tôi đây”

- Tốt. Đứng yên. Jean.

- Có mặt!

- Jean-Jean?

- Có mặt!

- Francis?

Không ai đáp.

- Francis quê ở Arles? Piccinino?

- Có mặt!">

- Hầu tước? Caloens?

- Có mặt! có mặt!

- Chắc là anh chàng Arles rồi - Colin Paturel nói.

Họ quây quần lại để xem tai nạn đã xảy ra như thế nào. Anh chàng Arles chắc là đi trước Angélique một quãng. Nàng kể lại là nàng nghe anh trượt trên đá cuội, và sau một tiếng thét ồm ồm và một hồi im lặng, nàng lại nghe tiếng thân người rơi đánh bịch dưới vực thẳm.

- Chúng ta phải đợi cho đến sáng - Colin quyết định.

Họ chờ đợi, run cầm cập vì giá rét và tê cóng do phải khom người trong hốc đá. Bình minh lên trong sáng. Quanh ngọn núi màu đỏ quạch một con đại bàng đơn độc đang bay vút lên bầu trời màu vàng chanh. Con đại bàng nổi bật trên nền trời buổi bình minh nom đẹp như chiếc quốc huy bằng đồng đen vĩ đại của đế quốc La mã. Nó bay thành những vòng duyên dáng ngày càng nhỏ dần trên khe núi. Colin Paturel theo dõi đường bay của nó.

- Chắc nó sẽ hạ xuống đàng kia - Chàng nói khi trời đã sáng rõ. Lần theo lối chim, họ nhìn thấy anh chàng xứ Provence nằm dưới chân vách đứng, như một điểm trắng trên nền đá đen lởm chởm.

- Có lẽ anh ta chỉ bị thương.

- Ném cho tôi sợi dây thừng, Kermoeur.

Colin buộc chặt một đầu dây vào một tảng đá và quấn đầu kia vào vòng eo, với động tác thành thục của một thủy thủ cả đời chuyên sử dụng dây thừng và thắt nút. Khi sắp xuống vực, chàng thay đổi ý kiến đưa mắt nhìn con đại bàng đang quần trên không, chàng nói:

- Đưa cho tôi chiếc chùy!

Chàng buộc gậy bên hông. Trọng lượng và kích thước của cây gậy gây không ít khó khăn cho chàng nhưng chàng vẫn thoăn thoắt leo xuống. Các chiến hữu nghiêng người bên bờ vực nhòm xuống nín thở theo dõi chàng. Họ thấy chàng đặt chân lên gờ đá, chàng trai xứ Arles đang nằm sóng sượt. Chàng cúi xuống, rồi thẳng người lên. Họ thấy chàng đặt mấy ngón tay lên mi mắt người xấu số và làm dấu thánh.

- Ôi, chàng trai xứ Arles đáng thương! - Jean-Jean kêu rống lên.

Tất cả đều biết rõ cái gì đã đi theo anh: những hồi ức về khổ sai và nhục hình, niềm hi vọng và tiếng cười sảng khoái, và những bài hát anh vẫn hát dưới bầu trời đầy sao trong làn gió mát thổi nhẹ qua đám lá cọ, bay lướt trên cái thế giới khốn khổ của đám nô lệ, để xoa dịu nỗi nhớ mong da diết của mỗi người. Angélique cũng chia sẻ nỗi đau chung; nàng chợt như nhìn thấy bao nhiêu điều của nhân loại khổ đau được ghi tạc trên những khuôn mặt xạm đen, khắc khổ kia.

- Colin! Cẩn thận, con đại bàng! - hầu tước Kermoeur thét lên.

Con chim ban nãy đã bay vút lên trời như thể quyết định bỏ con mồi, giờ đây lại bổ xuống nhanh như ánh chớp. Họ nghe rõ tiếng cánh nó đập mạnh, che khuất thân hình Colin Paturel. Một lúc lâu họ không theo dõi được diễn biến trận chiến đấu khốc liệt giữa người và chim. Thế rồi cuối cùng thủ lĩnh của họ lại hiện ra, múa chiếc chùy như múa cánh quạt cối xay gió. Chàng rất khó khăn mới giữ được thăng bằng trên gờ đá hẹp. Nhưng chàng vẫn chiến đấu một cách vừa dũng mãnh vừa khoan thai, như thể không hề cảm thấy cần thiết phải lùi bước. Chàng đã chọn một chỗ đứng ở bên rìa, chứ không tựa người vào vách đá, sợ trở ngại đến đường chùy của mình. Chỉ một bước sơ xuất hay cái quật quá đà là chàng có thể rơi tõm xuống vực sâu. Chàng quật vun vút vào địch thủ không dừng lại lấy hơi, còn con đại bàng thì không thể làm như thế được. Nhiều lần nó đã tháo lui, một cánh bị cụp xuống vì đòn đánh của Colin, nhưng rồi trở lại tấn công; mắt rực lửa và vuốt sắc nhọn giương ra phía trước. Cuối cùng, Colin Paturel lừa tóm được cổ nó. Bỏ chiếc chùy xuống, chàng rút dao ra cắt đứt họng trước khi ném nó xuống vực sâu.

- Tạ ơn Đức mẹ! - Lão Caloens thì thầm.

Mọi người mặt không còn hột máu, mồ hôi vã trên trán.

- Thế nào, các bạn, có định cho tôi lên không đấy? Tiếng nói của thủ lĩnh vọng lên - Các bạn còn chờ đợi gì trên đó.

- Có ngay, tâu bệ hạ!

Colin Paturel đã vắt ngang thi hài chàng trai xứ Arles lên vai. Vì thế đường leo lên của chàng càng quanh co khúc khuỷu. Khi lên đến nơi, chàng quỳ một chân xuống để thở. Máu ở vết thương do đại bàng gây nên đang chảy ròng ròng trên ngực chàng và làm ố tấm áo choàng trắng.

- Ban nãy tôi đã định để anh chàng Arles này ở lại đó - chàng nói - nhưng tôi không đành lòng để xác anh ấy bị chim săn mồi xé tan ra từng mảnh.

- Anh làm như thế là đúng lắm, Colin ạ. Chúng ta sẽ an táng anh ấy theo nghi thức Cơ đốc giáo. Trong khi những người kia dùng dao cố khoét một huyệt cạn đủ đặt thi hài chàng trai xứ Arles, Angélique đến bên Colin Paturel, đang ngồi trên một tảng đá.

- Anh để tôi băng bó vết thương cho anh, như anh đã băng bó vết thương của tôi hôm qua.

- Làm sao tôi có thể từ chối được, cô em yêu quý? Con đại bàng mổ tôi đau quá. Cô lấy chai rượu mạnh trong túi xách của tôi kia và cứ tha hồ tưới vào vết thương.

Trong khi nàng rửa các vết rách sâu trên ngực, Colin Paturel không hề co người lại. Khi chạm vào da thịt chàng, Angélique không thể không cảm thấy lòng kính trọng của mình đối với chàng đang tăng lên gấp bội. Một con người như thế quả là một sự ngợi ca đối với tạo hóa.

Nhưng Colin Paturel không còn nghĩ đến trận chiến đấu với đại bàng nữa. Chàng đang nhớ đến Francis xứ Arles. Tim chàng đau nhói bởi một nỗi đau lớn với nỗi đau do các vết thương trên ngực gây ra.