Những người Cơ đốc giáo đã kéo mũ chùm đầu xuống mặt. Họ hoàn toàn phục trang theo kiểu người Maroc. Mặt họ được cạo nhẵn và bôi đen bằng nhựa quả óc chó. Nhưng Jean-Jean thì ăn vận kiểu Do Thái, mặc áo dài đen. Angélique khoác trên người bao nhiêu là mạng che, đeo một tấm mạng đục dưới mi mắt. Nàng thầm cảm ơn tính hay ghen của đàn ông Maroc, vì nhờ thế nàng i cải trang được thế này.
- Cố làm sao lúc nào cũng nhìn xuống đất - Colin Paturel khuyên nàng - Chỉ trên cung trăng mới có đàn bà Maroc mắt xanh như bà. Chàng không cho nàng biết là Mulai Ismail đã có chiếu chỉ đặc biệt ra lệnh mang về cho hắn người đàn bà có đôi mắt màu xanh. Bản thân Colin Paturel cũng khó khăn lắm với cặp mắt và đôi vai rộng của chàng. Nghe nói khắp nước Maroc chỉ có hai người cao một mét chín mươi phân như chàng, và một trong hai người đã bị chàng giết chết. Do đó chàng quyết định đóng vai một thương nhân mang hàng hóa đi bán để có thể cưỡi lạc đà và che giấu chiều cao của mình. Angélique đóng vai vợ chàng, cưỡi la theo sau. Những người còn lại là gia nhân của họ, còn Jean-Jean đóng vai người quản lý Do Thái. Những người này đi bộ, có trang bị giáo mác, cung tên để bảo vệ Caravan, vì khó tìm ra súng hỏa mai, vả lại súng hỏa mai chỉ dành cho Quốc vương và quân đội.
Trong đêm tối, dưới ánh đèn bão, họ tập hợp lại. Maimoran khẽ giọng nói những lời dặn dò cuối cùng: Rabbi, em trai lão sẽ đợi họ ở Fez gần cái giếng Cebon. Anh ta sẽ đưa họ về nghỉ tại nhà riêng và dẫn họ đến Xauen, ở đó anh ta sẽ bàn giao cho một người chỉ đường đáng tin cậy khác. Người này là thương nhân nên hay vào Ceuta, ông ta sẽ giúp họ vượt qua bọn lính gác Maroc đang bao quanh thành phố này, giấu họ trong các hốc đá và đi thẳng vào thành phố báo cho viên tổng trấn, ông này sẽ cử một toán lính đi tìm họ. Một lần nữa lão khuyên họ nên chú ý đến hành vi của họ, chớ quên quỳ xuống hướng về Mecca lạy hai mươi lạy, và nhất là không được đứng tiểu tiện, vì chỉ riêng việc đó, người đứng xa cũng có thể biết họ là tín đồ Cơ đốc giáo. Tất cả những chi tiết này cực kỳ quan trọng. Cũng may là tất cả bọn họ đều nói tiếng Arập lưu loát và hiểu rõ những phong tục này. Vì một người phụ nữ Maroc bao giờ cũng im lặng, Angélique chỉ cần cố gắng đừng mở miệng. Con lạc đà đứng dậy, và cả đoàn lên đường qua các phố im ắng, khuya khoắt.
“Giá như đêm cứ kéo dài vô tận!” - Angélique nghĩ thầm. Một làn gió mát đưa lại mùi khói cay xè. Nàng nhận thấy các bức tường kín bưng của ghetto đã nhường chỗ cho các túp lều tre và lau. Các cánh cửa ngỏ cho thấy những đám than hồng âm ỉ, từ đó khói cay thoát ra theo các mái nhà lợp bằng lá khô. Chó đã bắt đầu sủa khi đoàn người đi qua. Nàng nhận ra họ đang đi qua mấy ngàn chiếc lều dành cho bọn lính gác của Quốc vương. Đây là một khu riêng ở ngoại ô thành phố.
Tiếng người nói ồm ồmhiệu một số tên da đen đang đến. Bọn này rất thông thạo đường sá, ngay cả trong đêm tối. Jean-Jean nói với chúng là chủ mình, một thương nhân ở Fez tên là Mohammed Raki đang trên đường về nhà; ông phải đi ban đêm vì ngại nắng. Chú bắt chước giọng Do Thái vùng này rất tài tình nên bọn da đen hoàn toàn bị lừa. Con lạc đà đi chậm kinh khủng. Lũ chó vẫn đuổi theo đớp vào chân nó và sủa inh ỏi. Lại có thêm nhiều túp lều! Mùi nồng nặc của lửa đốt bằng phân bò khô và cả mùi cá khô rán mỡ.
Cuối cùng mối nguy hiểm đầu tiên đã qua, và họ đi trên một con đường khá khang trang, tiếp tục phần còn lại của đêm. Khi bình minh đến, Angélique lo lắng nhìn bầu trời sáng dần nhuốm màu hồng và xanh lục. Họ đang đi qua một vùng có nhiều rặng ô liu. Xa nữa cảnh đồng quê nom rất cằn cỗi. Angélique không dám mở miệng hỏi han điều gì. Do đó nàng lại càng thêm lo lắng chẳng biết mình đang ở đâu và hiện giờ tình hình thuận lợi hay nguy hiểm. Vốn là người ưa hoạt động, nàng rất bực bội phải cam chịu làm một súc vải đặt trên lưng lạc đà. Dù phải chết hay gặp gian nguy, nàng cũng muốn ít ra được biết về chuyện đó. Họ có còn xa Fez không? Vì ở đây có một người Do Thái sẽ dẫn đường cho họ. Đoàn Caravan vẫn tiến đều. Liệu Colin Paturel có nhìn thấy cái quán ăn họ vừa đi qua ở chỗ đường cong không? Khi một người Arập từ trong quán bước ra, nàng suýt thét to lên. Nhưng vì người này ra đón họ nên Colin Paturel cho lạc đà quỳ và bước xuống.
- Xuống đi cô gái - Caloens bảo Angélique.
Nàng xuống la. Các bao thực phẩm được chia cho mọi người. Phần của Angélique cũng nặng như các phần khác. Thấy thế hầu tước de Kermoeur lên tiếng phản đối:
- Bắt phụ nữ phải mang nặng đến thế kia à! Tâu bệ hạ, tôi rất căm phẫn.
- Người Hồi giáo mà nhìn thấy một phụ nữ đi không sau một lô lính tráng mang đồ nặng è vai là họ sinh nghi ngay - Colin Paturel đáp - Họ chẳng bao giờ cho phép một sự điên rồ như vậy. Đừng quên là chúng ta vẫn có thể bị phát hiện. Chàng tự tay đặt chiếc túi nặng lên lưng Angélique.
- Hãy tha lỗi cho chúng tôi, cô gái nhé. Nhưng chúng ta không phải đi xa đâu. Ban ngày chúng ta tạm lánh, ban đêm sẽ tiếp tục đi. Anh chàng Arập đã cầm lấy dây cương la lạc đà đưa chúng vào quán, Piccinino đếm tiền trả cho y, rồi cả đoàn tiếp tục đi trên một đoạn đường đầy sỏi đá. Chẳng bao lâu, sau một cồn cát, xuất hiện một dải lau sậy dọc theo bờ sông.
- Chúng ta sẽ trốn suốt ngày trong đầm lầy kia - Colin Paturel giải thích - Mỗi người tự tìm lấy cho mình một chỗ nghỉ chân, cách xa người kia, vì nếu tập trung vào một nơi thì sẽ dễ dàng bị phát hiện. Đến đêm tôi sẽ giả làm tiếng cú rừng gáy làm tín hiệu. Lúc đó mọi người phải tập hợp lại ở rìa rừng kia. Ai cũng có một ít thức ăn và nước lã. Thôi, hẹn đến tối.
Họ phân tán khắp vùng lau sậy. Đất dưới chân họ chỗ thì xốp, chỗ thì khô cứng. Angélique tìm được một góc đất rêu và nằm duỗi hai chân trên thảm rêu êm dịu. Ngày kéo dài bất tận. Cái nóng trên đầm lầy quả là ngột ngạt, lại thêm ruồi muỗi cứ vo ve quanh nàng không ngớt. May mà nàng mang mạng nên chúng không đốt được. Nàng uống phần nước ít ỏi của mình và ăn chiếc bánh bột mì. Trên đầu nàng bầu trời chói rực như sắt nung. Đám lau sậy phủ bóng đen xuống người nàng. Nàng thiếp đi. Khi tỉnh dậy nàng nghe tiếng người và nghĩ rằng các bạn mình đang gọi. Nhưng trời vẫn chưa tối. Mặt trời vẫn cháy như một lò nung. Bỗng nhiên nàng nhìn thấy một dáng người quấn áo dài Arập đứng lên từ đám lau sậy, cách chỗ nàng mấy bước. Vì quay lưng lại nên nàng không nhận diện được.
“Ai kia nhỉ, anh chàng người Arles hay anh chàng Venice?” - nàng băn khoăn tự hỏi.
Người kia quay lại, và nàng thấy rõ làn da nâu của hắn không phải là do nhuộm nhựa quả óc chó. Hắn là người Maroc! Tim nàng ngừng đập. Nhưng tên Maroc không nhìn thấy nàng. Hắn đang nói chuyện với một người nào đó nàng không nom thấy.
- Chỗ lau sậy không tốt lắm - Hắn nói - Như là bị súc vật giẫm nát. Hay là ta đến bờ bên kia vậy. Nếu không tìm ra chỗ nào tốt hơn thì ta quay lại đây vậy.
Nàng nghe tiếng họ lách bụi lau ra đi, thầm mừng cho vận hạn của mình. Thình lình nàng nghe có tiếng người khác ở cạnh chỗ nàng. Nhưng nàng nhận ra ngay đó là Francis, người Arles - anh ta cất tiếng hát.
“Thằng điên! - nàng tức giận nghĩ thầm - Hắn định mách nước cho bọn Maroc để chúng quay trở lại hay sao?” Song nàng không dám đi đến chỗ anh ta để bịt mồm anh ta lại, cũng không dám gọi. Nhưng một lát sau, không thấy động tĩnh gì, nàng quyết định toài về phía anh ta.
- Ai đấy? - Anh ta hỏi - A, té ra là nàng Angélique xinh đẹp.
Nàng giận run lên:
- Anh điên hay sao mà hát hò như thế! Trong bãi lầy có bọn Maroc đấy. Chúng đang cắt lau. Chúng nó không nghe thấy tiếng anh hát kể cũng lạ.
Mặt anh chàng xứ Provence tái mét:
- Lạy Chúa! Tôi quên khuấy đi mất! Tôi sung sướng quá vì tám năm nay lần đầu tiên tôi mới được tự do, thế là tôi nghêu ngao hát những bài hát quê hương. Theo bà, chúng có nghe thấy tiếng tôi hát không?
- Cũng mong là không. Nhưng đừng động đậy gì cả.
- Nhưng nếu chúng chỉ có hai tên. Anh ta rút dao găm ra khỏi bao và thử xem có sắc không. Cầm con dao trong tay anh ta tiếp tục mơ màng:
- Tôi có một cô gái ở quê. Theo bà cô ta có đợi tôi không?
- Nếu cô ấy đợi thì mới lạ - Angélique nói thẳng - Tám năm là một thời gian dài. Chắc cô ấy đã có cả một bầy con với một người đàn ông khác rồi.
- Bà có tin thật như thế không? - Anh ta thất vọng hỏi.
Ít ra bây giờ anh ta sẽ không vui vẻ hát hò nữa. Hai người ngồi im lắng nghe tiếng lau xào xạc. Angélique ngước mắt lên và thở dài nhẹ nhõm. Cuối cùng thì trời đã đỏ dần ở đàng tây. Chiều sắp đến và đêm tối sẽ giúp cho họ, sẽ dẫn dắt h các vì sao.
- Ta đang đi về phương nào? - nàng hỏi.
- Phương nam
- Trời ơi, sao lại thế?
- Đó là hướng duy nhất mà bọn lính của Mulai Ismail không lùng sục chúng ta. Nô lệ nào lại chạy trốn về phương nam, vào sa mạc? Sau đấy chúng ta theo cạnh huyền quay về phía đông, rồi đi thẳng về phương bắc, tránh xa Meknès và Fez, rồi tiếp tục theo một người dẫn đường tiến về Ceuta hoặc Melilla. Như thế đường đi sẽ dài gấp đôi, nhưng nguy hiểm sẽ giảm bớt được một nửa. Chú chuột non đang lừa mụ mèo già to lớn. Trong khi Mulai Ismail đợi chúng ta xuất hiện ở phía bắc hay phía tây, thì chúng ta đang ở phía nam và phía đông. Chúng ta chỉ có thể mong sao khi chúng ta đi vào đúng hướng thì hắn cũng mệt rồi. Có một điều là những ai đi theo đường thẳng chẳng bao giờ tới đích cả. Ít ra chúng ta cũng có thể là ngược lại. Đừng quên là bọn tù trưởng phải đền mạng sống nếu chúng để bọn Cơ đốc chạy trốn vượt qua lãnh địa của chúng. Và đừng nghĩ rằng chúng mất cảnh giác. Lũ chó săn của chúng đều được huấn luyện để tìm dấu vết người Cơ đốc.
- Suỵt - nàng nói - Anh có nghe tín hiệu không?
Cái bóng màu tím mờ mờ trải dài ra khi tiếng chim cu chốc chốc lại nổi lên trên đám lầy. Những người chạy trốn hết sức thận trọng rời chỗ ẩn náu và lặng lẽ tập hợp lại để điểm danh và tiếp tục cuộc hành trình. Họ đi suốt đêm, khi thì xuyên qua rừng, khi thì vượt qua những bãi cát mênh mông nhiều mỏm đá đến nỗi không nhìn thấy con đường mòn dưới chân. Họ ngại nhất là gặp dân bản xứ, và dựa vào tiếng gà gáy và tiếng chó sủa để tránh xa các nhà dân. Đêm thường mát trời, nhưng vẫn có nhiều người Maroc ra ngủ giữa cánh đồng để trông giữ mùa màng chưa kịp thu hoạch. Cái mũi rất thính của Piccinino phát hiện dễ dàng mùi khói, và hầu tước Kermoeur rất thính tai, có thể phát hiện những âm thanh rất giỏi. Ông thường hay áp tai xuống đất để lắng nghe. Họ phải trốn trong một khoảnh cây thạch nham khi có hai người cưỡi ngựa phóng qua, may mà không có chó theo sau. Buổi sáng họ nấp trong rừng và trải qua một ngày chờ đợi căng thẳng. Họ bắt đầu cảm thấy cơn khát dày vò vì số nước uống mang theo đã cạn. Họ tìm kiếm khắp rừng một dòng suối. Nhưng chỉ thấy một vũng nước ao tù đầy ếch nhá côn trùng. Họ đành dùng giẻ lọc lấy nước và uống ngon lành. Angélique tìm một góc cách đám đàn ông không xa và đặt lưng ngủ, để nằm mơ thấy cái buồng tắm ở hậu cung có nước trong và đẫm hương, và các nữ tì xịt nước hoa hồng lên thân thể nàng, khi nàng từ trong buồng tắm bước ra. Ước gì nàng được tắm một cái, miễn là có cái gì đó để dội sạch những nhớp nháp do quần áo bết mồ hôi dính sát vào người nàng. Nàng oán Colin Paturel đã buộc nàng phải mang cái mạng che nặng trịch này trước mặt. Angélique trầm ngâm suy nghĩ đến số phận buồn thảm của các phụ nữ Hồi giáo thuộc đẳng cấp bần cùng. Cuối cùng nàng hiểu ra tại sao cảnh sống trong hậu cung lại là mơ ước của họ, những người như mụ già Fatima khốn khổ. Angélique cũng cảm thấy khốn khổ vì cơn đói. Dạ dày nàng đã quen ních đầy bánh kẹo nên không chịu nổi cái khẩu phần ăn nghèo nàn hàng ngày, chỉ vẻn vẹn có một chiếc bánh bột mì.
Các tù nhân kia ít khốn khổ hơn nàng, vì khẩu phần của họ chẳng khác mấy so với suất ăn hàng ngày trong cảnh cầm giam. Vả lại họ cũng biết cách sống cho qua ngày dù có phải ăn ít hơn. Angélique lắng nghe họ tán gẫu với nhau về những chuyện linh tinh. Đêm đến họ lại tiếp tục lên đường. Trăng sáng nom như một lưỡi liềm bằng vàng giữa bầu trời đầy sao. Vào nửa đêm họ đến gần một khu dân cư. Có tiếng chó sủa, Colin Paturel ra lệnh dừng lại. Sau khi trao đổi ý kiến với hầu tước de Kermoeur, Colin Paturel quyết định đi vào rừng. Nhưng rừng quá rậm, nên đi được vài ba cây số họ đành phải quay trở lại đi theo đường lộ. Angélique đánh mất một chiếc dép, nhưng không dám nói. Lại đến ngoại vi một khu dân cư. Phải có quyết định dứt khoát.
- Tiếp tục đi - Colin Paturel nói - và phó thác cho Thượng đế!
May mà dân cư vùng này chưa hề nom thấy các nô lệ trốn về phương nam bao giờ nên chẳng huấn luyện chó đuổi theo. Ánh bình minh vừa ló họ được lệnh dừng lại. Angélique ngã quỵ xuống đất, kiệt sức. Vì quá sợ nên nàng vẫn tiếp tục bước trong trạng thái hầu như vô thức. Giờ đây, nàng thấy bàn chân không dép rách bươm vì đá nhọn trên đường và đau nhức vô cùng.
- Có chuyện gì thế, hở cô gái? - Colin Paturel hỏi.
- Tôi đánh mất một chiếc dép - nàng đáp, nước mắt lưng tròng. Colin Paturel không tỏ ra ưu ái gì cả. Chàng đặt chiếc ba lô xuống đất và lấy ra một đôi dép nữ khác">
- Tôi có nhờ bà Rachel, vợ Maimoran, kiếm cho bà một đôi nữa đề phòng có chuyện bất trắc xảy ra. Đàn ông chúng tôi thì thế nào cũng được, còn đối với bà chúng tôi phải chu đáo.
Chàng quỳ xuống trước mặt nàng và rót một thứ thuốc mỡ trong chiếc lọ con lên một mảnh vải, rồi đắp vào bàn chân đau của nàng.
- Tại sao bà không cho tôi biết sớm hơn - chàng hỏi - để bàn chân phải đến nỗi này?
- Lúc đi qua khu dân cư tôi sợ quá nên chẳng còn biết đau nữa. Bàn chân mảnh mai và xinh đẹp của nàng nằm gọn trong bàn tay to lớn của Colin Paturel. Chàng tiếp tục xoa thuốc mỡ lên bàn chân nàng và đôi mắt xanh của nàng nhìn chàng đăm đăm.
- Bà sợ mà vẫn cố bước, phải không? Tốt lắm! Bà là một chiến hữu tuyệt vời.
Bây giờ nàng cảm thấy rõ tại sao họ gọi chàng là vua; chính là vì chàng có khả năng làm cho họ phải kính nể, đồng thời cũng rất dịu dàng và trìu mến đối với họ. Nàng tin tưởng mãnh liệt rằng Colin Paturel không bao giờ chiến bại. Dưới sự bảo vệ của chàng chắc chắn nàng sẽ đến được vùng đất Cơ đốc giáo, cuối cùng sẽ kết thúc cuộc hành trình lâu dài, mặc dù phải trải qua bao nhiêu gian khổ để đi đến cái đích cuối cùng. Nàng chẳng còn sợ cái miền quê man rợ này và những con người sống ở đó nữa; nàng quên hẳn những bước đi thận trọng như những kẻ biểu diễn trên dây bước qua một vực sâu thăm thẳm rợn người. Nàng ngủ lịm đi giữa những mỏm đá nóng bỏng quanh nàng, mặt áp sát đất mong tìm chút hơi mát mẻ.
Những con đường mòn trên sa mạc uốn quanh, vùng cát bao la, thỉnh thoảng mới thấy một khóm cọ chơ vơ. Nhưng họ không hề gặp một khe nước nhỏ hay một vũng nước cỏn con. Những mỏ diêm tiêu trắng tinh ánh lên ở những chỗ trũng dưới chân các cồn cát khô cằn. Colin Paturel nhặt vài ba thỏi và cho vào túi phòng khi họ quay trở lại phương bắc. Họ có thể săn được nhiều linh dương và lợn rừng, xát muối, cỏ xạ hương và hồ tiêu dại, rồi thui trên ngọn lửa rực đỏ và nhắm với nước mát lấy ở các hồ nước. Lạy chúa lòng lành, biết tìm nước mát ấy ở đâu? Lưỡi họ dính chặt vào hàm ếch. Cơn khát đã đánh gục Angélique. Má nàng nóng cháy vì mặt trời thiêu đốt ở chỗ tấm mạng che mặt tụt xuống, da nàng đỏ ửng như tôm luộc và quá rát không dám chạm tay vào. Đằng sau khối đá che giấu nàng, có tiếng đấm thình thịch, Colin Paturel lợi dụng thời gian nghỉ để luyện võ. Khát và mệt không hề ảnh hưởng đến chàng. Chàng đã nhổ bật một gốc cây và đẽo thành một chiếc chùy to tướng mà chàng thử nghiệm bằng cách quật mạnh vào tảng đá.
- Vũ khí này cũng tốt ngang với thanh kiếm của Kermoeur - chàng huênh hoang - Có thể nó không moi được ruột, nhưng nó có thể làm cho óc bọn Maroc nhìn thấy ánh sáng.