Chương 171: Chương 19

Bọn lính gác không muốn ở lại lâu trong ghetto. Chỉ một lát sau bọn chúng đã bỏ đi, để rồi hôm sau trở lại với nhiều thủ cấp nữa. Rachel đặt tay lên tay Angélique để trấn an nàng. Bà mỉm cười nhìn nàng. Tại sao, Angélique thắc mắc, những người này lại mạo hiểm như vậy? Lưỡi gươm treo trên đầu đám nô lệ da trắng cũng có thể rơi xuống đầu người Do Thái chứ.

- Mọi việc đều trôi chảy - Rachel nói - Đây hầu như là những từ tiếng Pháp duy nhất bà ta biết, và khi nói ánh vui trong mắt bà và nụ cười tinh tế của bà làm Angélique nhớ đây là con gái của lão Savary. Thực ra nàng không thể gạt bỏ cái cảm giác nàng vẫn đang chờ đợi lão xuất hiện bất kỳ lúc nào. Nàng không thể hình dung mình lại lên đường mà không có cái dáng dấp loi choi không hề biết mệt của lão bên nàng, những lời góp ý cho nàng và chiếc mũi hít hít trong làn gió “cái mùi thơm kỳ diệu của những chuyến đi xa

- Quỷ tha ma bắt tên Mulai Ismail! - nàng khẽ thốt lên bằng tiếng Arập.

- Quỷ tha ma bắt tên Mulai Ismail một ngàn lần - Mấy người đàn bà Do Thái phụ họa lại như đang đọc bài kinh cầu nguyện.

Tối thứ hai Cavallac và một nô lệ khác, Hiệp sĩ xứ Malte tên là Marmondin đến. Họ cho biết cả thành phố Meknès đang sống trong nỗi thấp thỏm chờ đợi cơn bão tố không sao tránh khỏi. Cuối cùng vụ bê bối kinh khủng về việc một cung phi trốn khỏi hậu cung đã vỡ lở ra. Xác của Đại hoạn quan đã tìm thấy. Mulai Ismail sẽ làm gì đây? Hắn sẽ nói gì đây? Hắn vẫn không nhấc người khỏi mặt đất kể từ lúc hắn phủ phục nghe tin này.

- Ta chỉ có hai người bạn chân chính trên thế gian này - hắn nhắc đi nhắc lại - Osman Faraji và Colin Paturel và chỉ trong một ngày ta đã mất cả hai!

Vì ngượng ngùng hắn không nhắc đến người đàn bà chạy trốn. Nhưng ai cũng biết rằng khi đã ngấm đau thì tác động của chuyện đó sẽ hết sức kinh khủng. Hắn sẽ chém giết điên cuồng đến mức nào đây để khuây khỏa bớt nỗi đau trong lòng?

- Chúng ta phải ở lại đây thêm một ngày nữa - Colin Paturel nói.

Mồ hôi vã đầy trên trán những người còn lại. Họ không thể chịu đựng thêm một ngày nữa trong cái khu ghetto yên lặng như nấm mồ này. Mulai Ismail có thể đánh hơi thấy họ qua những bức tường.

- Thêm một ngày nữa! - Anh chàng Norman nói bằng một giọng đanh thép, không ai dám cãi lại.

Họ đành im lặng chấp nhận, sức mạnh của chàng đã dập tắt những ý đồ phản kháng của họ, giống như vẻ lạnh lùng của Maimoran và tính tự chủ dị thường của ông đã làm xẹp đi tính kiêu ngạo hung hăng của tên bạo chúa khát máu. Hắn đang cho người lùng sục trên khắp các ngả đường sa mạc dẫn đến vùng duyên hải Mazagan. Hắn cũng đã sai sứ giả đến báo cho các tù trưởng biết là nếu chúng không tóm được bọn chạy trốn về thì chúng sẽ phải nộp mạng thay. Sau đó Angélique ng nói chuyện với Marmondin, hiệp sĩ xứ Malte, một người trạc năm mươi tuổi. Sau khi Colin chạy trốn ông này sẽ tiếp tục công việc của chàng, duy trì trật tự, phân xử và hòa giải các bất đồng trong đám nô lệ.

- Ông có thể trông cậy vào một người như thế - Colin Paturel nói - nhưng đối với người kia thì hãy cẩn thận. Không bao giờ nên để một tín đồ Chính thống ở một mình với một người Công giáo.

Rồi Cavaillac và Marmondin cáo biệt trở về trại nô lệ. Hai người hứa sẽ lại mang tin tức đến vào ngày qui định xuất phát. Thêm một ngày nữa chậm chạp trôi qua. Sáng hôm sau Angélique đang ngồi một mình trong căn phòng dành cho phụ nữ thì Hầu tước de Kermoeur đến xin một bát nước nóng trong xamôva. Ông lợi dụng thời giờ rỗi rãi để cạo râu, một việc rất hiếm khi ông làm trong suốt sáu năm bị giam tù, mà cũng chỉ cạo râu bằng mảnh thủy tinh vỡ.

- Bà thật là may mắn, không phải bận bịu về những chuyện ấy - ông vừa nói vừa lấy ngón tay cù vào má nàng - trời ơi làn da sao mà mịn thế này! Angélique nhắc ông phải bưng bát bằng cả hai tay khi nàng rót nước để khỏi bỏng. Hầu tước ngẩn ngơ nhìn nàng.

- Vui sướng biết bao được nhìn thấy một cô gái Pháp vô cùng hấp dẫn sau những năm tháng đọa đày! Ôi, người đẹp có biết là tôi lúng túng như thế nào khi đứng trước nàng trong tình trạng thảm hại thế này không? Nhưng hãy kiên nhẫn một chút. Ngay sau khi đến Paris, tôi sẽ cho may một chiếc quần chẽn bằng xa tanh đỏ. Suốt trong thời gian bị bắt lúc nào tôi cũng mơ một chiếc quần như thế.

Angélique cười phá lên:

- Thưa ngài, đã từ lâu những người ăn mặc đúng thời trang chẳng ai dùng quần chẽn nữa.

- Ồ, thế bây giờ họ mặc gì?

- Mặc quần lửng quá đầu gối, và áo thụng cũng dài như thế.

- Bà kể nữa đi - hầu tước van vỉ, vừa ngồi xuống cạnh nàng trên chồng đệm.

Nàng kể cho ông nghe cụ thể về trang phục trong Triều. Nếu hầu tước mang tóc giả, nàng nghĩ bụng thì nom rất giống công tước Lôdăng. Đột nhiên ông nói:

- Xin bà cho phép tôi cầm bàn tay bà.

Nàng đưa tay ra và ông hôn nhẹ lên bàn tay. Rồi ông kinh ngạc nhìn nàng.

- Thế bà đã từng sống ở trong Triều thật ư? - Ông nói như thể không tin được điều đó - Khi trở lại Versailles, tôi sẽ phải hôn một ngàn bàn tay tại hành lang lớn để có thể làm cho bà hoàn toàn mãn ý. Tôi cam đoan là bà đã được ra mắt Đức Vua, đúng không?

- Như thế thì có gì là quan trọng, thưa ngài?

- Bà hãy cho tôi biết quý danh, hỡi người đẹp bí hiểm của tôi! Hoàn cảnh nào đã đưa đẩy bà vào tay bọn cướp biển?

- Thế còn ngài, thưa ngài?

- Hầu tước? - Giọng Colin Paturel ngắt câu chuyện giữa hai người - Chàng khổng lồ đang đứng ở khung cửa.

- Dạ tâu bệ hạ! Kermoeur đáp.

Cách xưng hô ấy hoàn toàn không có ý mỉa mai. Tất cả những người bị bắt đều quen gọi chàng như thế. Kể từ khi chàng lập lại trật tự, giúp họ thoát khỏi cảnh sống lộn xộn, rối ren. Cách xưng hô ấy có pha lẫn chút trìu mến đối với những ai khâm phục chàng, và chút kinh hoàng đối với những kẻ sợ chàng. Họ cảm thấy họ có một người có quyền uy bảo vệ và rõ ràng Colin Paturel là người phát ngôn dũng cảm của họ. Chàng đã xây cho họ một trạm xá và tìm được bác sĩ để chăm sóc người ốm; giúp cho họ có khẩu phần khá hơn, cả rượu vang, rượu mạnh và thuốc lá; cho họ có quyền tổ chức những ngày lễ lớn Cơ đốc giáo. Và mời các Cha cứu thế đến. Việc này cho đến nay tuy chưa đạt kết quả bao nhiêu nhưng đã dọn đường cho các cuộc thương lượng sau này.

Hầu tước đờ Kermoeur thành tâm khâm phục Colin Paturel và vui vẻ tuân theo mệnh lệnh của chàng. Ông thừa nhận chàng là một thủ lĩnh thông minh, mà trong suốtăm phục vụ trong hải quân hoàng gia ông chưa hề gặp. Ông bị bắt khi ông còn là thiếu úy hai mươi hai tuổi. Ông là vệ sĩ của vua nô lệ, vì ông là tay kiếm cừ khôi nhất trong bọn họ, và Colin Paturel đã xin phép cho ông mang kiếm.

Khi ông biết tin thủ lĩnh của mình âm mưu chạy trốn lần thứ ba, ông xin đi theo. Trên thực tế Colin Paturel đã đưa toàn bộ tham mưu của mình đi theo. Giờ đây Colin quay sang phòng kia và gọi to: “Các chiến hữu, lại đây!”. Tất cả những người bị bắt đều xếp hàng trước mặt chàng. Kermoeur cũng đứng vào hàng.

- Thưa các chiến hữu, tối mai chúng ta sẽ lên đường. Lát nữa tôi sẽ cho biết huấn thị cuối cùng, nhưng trước tiên tôi muốn nói đôi lời với các chiến hữu. Chúng ta có bảy người - sáu nam và một nữ. Người phụ nữ này kể cũng làm vướng chân chúng ta đấy, nhưng nàng rất xứng đáng được chúng ta giúp đỡ trong công cuộc đấu tranh tìm kiếm tự do. Bây giờ hãy nghe rõ đây, nếu muốn tới đích, chúng ta cần kết chặt với nhau. Chúng ta sắp trải qua đói khát, nhọc nhằn, cái nắng sa mạc như thiêu như đốt, và nỗi sợ hãi. Nhưng chúng ta quyết không được thù ghét nhau. Không thể có căm thù giữa những con người cần phải dựa vào nhau mà sống và có một mong muốn giống nhau. Tôi tin là các chiến hữu đều biết tôi đang nghĩ đến điều gì. Không mảy may nào, thưa các chiến hữu, nếu chúng ta không muốn diệt vong! - Chàng chỉ tay vào Angélique nói - Người phụ nữ kia không dành cho bất cứ một ai trong chúng ta. Nàng không thuộc về ai cả. Cũng như bất cứ người nào trong chúng ta, nàng đang dấn thân vào nguy hiểm. Trong mắt chúng ta, nàng không phải là một người đàn bà, mà cũng là một chiến hữu của chúng ta. Người nào liều lĩnh tán tỉnh nàng hay tỏ ra khiếm nhã đối với nàng, người đó sẽ phải chịu trách nhiệm trước tôi, và chắc các chiến hữu đã hiểu như thế nào rồi. Chàng gồng hai cánh tay gân guốc lên - Và nếu tái phạm, thì chúng ta sẽ xử theo luật của chúng ta, và kẻ đó có thể sẽ bị làm mồi cho thú dữ trên sa mạc.

“Anh ta nói năng đâu vào đấy và tỏ ra hết sức nghiêm khắc!” - Angélique nghĩ thầm, trong lòng vô cùng thán phục. Vì trước đây nàng đã theo dõi Colin Paturel qua kẽ hở trên tường nên nàng hiểu rõ chàng hơn là chàng hiểu nàng. Tuy chàng rất quen thuộc đối với nàng nhưng nhìn gần nàng vẫn sợ nổi gai ốc. Nàng sợ những vết sẹo của chàng, các vết sẹo bỏng thành sẹo đen trên cánh tay và đùi chàng, những vết thương chưa lành hẳn ở cổ tay và mắt cá chân do xiềng xích và nhất là những lỗ xuyên qua hai bàn tay bị đóng đinh của chàng. Chàng chưa đến bốn mươi, nhưng tóc mai đã điểm bạc, dấu hiệu suy yếu nhất trong con người sắt thép của chàng.

- Thế nào, các chiến hữu? - Chàng hỏi, sau khi đã để cho họ thời gian suy nghĩ.

- Đồng ý! - Tất cả nhất loạt trả lời.

Hầu tước bổ sung: “Cho đến khi chúng ta lại đặt chân lên miền đất Cơ đốc giáo”

- Cái đó tùy cậu, đồ đểu giả! - Colin cười phá lên, đưa tay đập vào lưng hầu tước - sau đó thì tự do muôn năm! Đủ kiểu tự do! Ôi, các bạn ơi, lúc đó ta sẽ vui sướng biết chừng nào!

- Tôi sẽ ăn suốt ba ngày - Jean-Jean nói, mắt như lồi ra.

Họ đi ra ngoài tiếp tục bàn tán về những gì họ sẽ làm sau khi lọt vào bức tường thành của thành phố Mazagan thuộc Bồ Đào Nha hay Ceuta thuộc Tây Ban Nha. Nhưng Colin vẫn ngồi lại trong phòng với Angélique.

- Bà đã nghe những gì tôi vừa nói. Bà cũng đồng ý chứ?

- Dĩ nhiên là rất đồng ý. Tôi rất nhớ ơn ông.

- Ban nãy tôi nói không phải chỉ vì bà, mà vì chúng tôi nữa. Nếu có một sự bất hòa nào đó trong một công việc to tát như thế này, thì chỉ có nước chết. Và ai sẽ cầm trong tay quả táo bất hòa từ ngày khai thiên lập địa? Một người đàn bà! Như ông linh mục già trong làng tôi vẫn nói: “Đàn bà là ngọn lửa, đàn ông là bùi nhùi, quỷ ác là gió”. Trước đây tôi không muốn đưa bà đi cùng. Chúng tôi đưa bà đi là vì nể cụ Savary. Người Do Thái sẽ không giúp đỡ chúng tôi, dù có trả tiền, nếu chúng tôi không nhận bà. Họ rất khó gần, nhưng một khi họ đã chấp nhận người nào, thì họ đối xử với người ấy như người của họ. Thái độ của họ đối với Savary là như thế; họ đã coi Savary như người của họ. Cụ chỉ muốn có một điều là đưa bà ra khỏi hậu cung. Vì thế chúng tôi phải thực hiện ý nguyện lớn nhất của cụ. Về phần tôi, tôi cũng vui lòng làm việc đó, vì tôi rất quý cụ. Thật là một con người tuyệt vời! Cụ là một con người thông thái vô cùng! Cụ biết nhiều hơn tất cả chúng tôi gộp lại, gấp trăm lần, không, gấp nghìn lần. Như vậy là chúng tôi đưa bà đi cùng. Song tôi phải nói biết là bà phải giữ vững khoảng cách với họ. Bà là một phụ nữ đã từng trải, bà cũng rất quen thuộc cánh đàn ông chúng tôi, nhưng chớ có quên rằng những anh chàng này đã phải sống thiếu đàn bà bao nhiêu năm nay. Họ sẽ dễ dàng nhớ lại những gì họ đang thiếu. Bà hãy tách riêng ra, và luôn luôn đeo mạng che mặt, như một phụ nữ Maroc. Biết sống theo thời thế chẳng bao giờ là dại dột cả, tôi mong bà hiểu tôi định nói gì.

Angélique hơi khó chịu. Tuy biết rõ những điều chàng nói về cơ bản là đúng nhưng nàng không thích cái giọng của chàng lắm, phải chăng chàng nghĩ rằng nàng thích thú những anh chàng hôi hám, xanh lướt này lắm? Có các vàng nàng cũng chẳng chấp nhận bất cứ người nào trong bọn họ. Nàng đã định bụng sẽ cố gắng đối xử tử tế với họ, nhưng bây giờ người ta lại bảo nàng phải tránh xa họ, thế thì còn gì bằng.

- Thưa vâng, tâu bệ hạ - Nàng đáp, giọng châm chọc.

Chàng Norman nheo mắt lại:

- Bà không phải xưng hô với tôi như thế, bà yêu quý. Tôi đã từ bỏ vương miện rồi. Tôi chỉ là Colin Paturel, quê ở Valery Caux. Tên bà là gì?

- Angélique.

Một nụ cười ánh lên trên gương mặt râu ria của chàng.

- Tốt! Cứ như thế, cứ mãi mãi là thiên thần. Hiệp sĩ Malte de Marmondin trở lại.

- Tôi nghĩ rằng ra đi lúc này là đẹp lắm - ông nói - Chẳng rõ thế nào mà chúng đồn là những người chạy trốn đang trên đường Santa-Cruz. Đó là con đường đang bị theo dõi. Đã đến lúc rồi! Colin Paturel đưa tay vuốt mái tóc vàng bù xù và trên mặt chàng hiện lên một vẻ kinh hoàng.

- Bỗng dưng tôi băn khoăn là có nên làm như thế không? - chàng nói - Ôi, thưa ông, cứ nghĩ đến những linh hồn khốn khổ tôi bỏ lại trong cảnh tù đầy…

- Đạo hữu ơi, đừng trách mình làm gì - Hiệp sĩ dịu dàng nói - Đã đến lúc bạn phải ra đ. Nếu bạn không đi thì bạn sẽ chết.

- Khi tôi đến một quốc gia Cơ đốc giáo - Colin Paturel nói - Tôi sẽ báo cho các Hiệp sĩ Malte biết về số phận của ông để họ tìm cách chuộc ông.

- Không, đừng làm vô ích.

- Tại sao?

- Tôi không muốn rời Meknès. Tôi là một thầy tu và linh mục, và tôi biết rõ vị trí của tôi là phải ở đây như là một tù nhân của bọn phản chúa.

- Ông sẽ đến lúc phải chết ở giàn thiêu.

- Có lẽ. Nhưng dòng đạo của chúng tôi dạy rằng chỉ có Tử đạo mới là cái chết xứng đáng với một Hiệp sĩ Malte. Và bây giờ, xin vĩnh biệt đạo hữu yêu quý.

- Vĩnh biệt, Ngài hiệp sĩ.

Hai người đặt bàn tay lên vai nhau. Đoạn de Marmondin từ biệt từng người một, cũng theo kiểu ấy, gọi tên từng người, như muốn ghi tạc vào lòng tên tuổi họ. Ông nhìn họ lòng buồn rười rượi vì ông biết rằng trong vòng mười năm nay chưa ai nghe nói có người nào trốn khỏi Vương quốc Maroc. Ông lặng lẽ cúi chào Angélique, rồi bước ra, đi vào con đườ