Chương 153: Chương 01:Phần III Đại hoạn quan

Đứng trên tàu galê đang tiến vào bờ, Angélique chỉ nghe tiếng mũi tàu rẽ sóng lăn tăn, nàng ngẩng lên và nhìn thấy nam tước Von Nessenood mắt đăm đăm hướng vào đất liền.

- Algiers - Ông nói.

Chỉ một lát sau tiếng rầm rì của thành phố lao xao đưa tới. Rồi thành phố hiện rõ giữa hai bờ đê chắn sóng, lấp lánh một màu tang tóc. Khi tàu vào cảng, lá cờ nheo thêu kim tuyến của Ali Hadji như chìm đi trong biển cờ xí phấp phới trước gió, nổi bật nhất là lá cờ đỏ có hình vẽ màu trắng và lá cờ trắng lưỡi liềm trên nền xanh lục. Chiếc galê đi tiên phong bắn một phát đại bác, và một chiếc galê ở bến bắn trả lời, tiếp theo là những tiếng reo hò mừng rỡ.

Hai Hiệp sĩ xứ Malte, vẫn mặc áo giáp màu đỏ, dẫn đầu đoàn tù đang lũ lượt bước lên bến. Tiếp đến là các thủy thủ và lính thủy, sau cùng là hành khách. Còn Angélique thì bị giải riêng, có một đội cảnh vệ đi kèm.

Những người kia, bị xích từng đôi một, bị đoàn thủy thủ người Berber chiến thắng xô đẩy dọc theo bờ ke đến tận Cung điện Jenina của Pasha. Họ được trình cho Pasha xem trước, để Ngài chọn lựa những ai Ngài thích.

Đám dân chúng áo quần trắng toát như những bóng ma, gương mặt vàng võ xúm quanh lại, kêu lên the thé và nhìn họ bằng những cặp mắt thù địch. Chen lẫn vào đám dân chúng là những người nô lệ Cơ đốc giáo mặt mày xanh xao, râu ria bờm xờm, quần áo tả tơi. Họ lớn tiếng gọi những nô lệ mới bằng đủ thứ tiếng các nước Cơ đốc giáo, hi vọng tìm thấy trong số đó một vài người đồng hương có thể cho họ biết tin tức gia đình.

- Tôi tên là Jean Paraguez, quê ở Collioure bên dãy Pyrénées… Có ai biết không? Tôi tên là Robert Toutain, ở Cette...

Bọn cảnh vệ Thổ Nhĩ Kỳ dùng roi cật bò quất tứ tung.

Vừa đến chợ nô lệ, Angélique được đưa lên một phòng riêng biệt tường quét vôi trắng xóa. Nàng ngồi thu lu trong một góc, lắng nghe tiếng ồn ào bên ngoài.

Ngay sau đó, bức màn được vén lên và một mụ già Hồi giáo, da ngăm đen, mặt nhăn nheo như quả bưởi khô, bước vào.

- Tên tôi là Fatima - mụ cười niềm nở - nhưng bọn tù quen gọi tôi là Mirelia xứ Provence.

Mụ mang đến hai cái bánh mật ong, một ít nước đường pha dấm và một vuông đăng ten để che mặt cho khỏi nắng. Song đã quá muộn, mặt Angélique đã đỏ ửng như quả bồ quân. Mặt trời lúc đó đã trải nắng vàng lên khắp thành phố Algiers trắng xóa. Angélique muốn tắm. Áo váy nước biển hắt vào làm ố bẩn và đôi chỗ bị dính hắc ín từ các ván tàu.

- Tôi sẽ đưa bà đi tắm sau khi họ bán xong các nô lệ kia - mụ già nói - Có lẽ phải đợi khá lâu đấy, vì cũng phải đến buổi cầu kinh trưa mới xong.

Mụ nói bằng một thứ ngôn ngữ hổ lốn, gồm đủ thứ tiếng Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Thổ và Arập, mà mọi nô lệ đều hiểu. Nhưng rồi dần dần tiếng mẹ đẻ phục hồi trở lại, mụ kể cho Angélique nghe về quê quán mụ ở Aix-en-Provence. Năm mười sáu tuổi mụ đã làm hầu gái cho một bà lớn ở Marseille và trong khi cùng bà chủ đi tàu đến thăm chồng bà ta ở Naples mụ bị bọn Berber cướp đi. Vì chỉ là một cô hầu hèn hạ, mụ bị bán cho một người Hồi giáo nghèo lấy dăm sequin. Còn bà mệnh phụ kia thì chúng đưa vào hậu cung của một vị vua chúa nào đó.

Fatima-Mirelia, giờ đã già nua và góa bụa, mỗi ngày kiếm được dăm đồng bằng việc chăm sóc cho các nô lệ mới. Những thương nhân muốn kiếm lợi tối đa thường nhờ mụ giúp. Mụ tắm rửa, chải đầu và an ủi những phụ nữ bất hạnh vì thường thường họ nom rất phờ phạc và sầu não, bởi những chuyến đi vất vả và nỗi lo trước những cảnh thăng trầm sắp tới.

- Tôi rất vui mừng - mụ thốt lên - được giao chăm sóc bà. Bà là người phụ nữ Pháp được Rescator mua với giá ba mươi lăm ngàn đồng rồi sau đó đã trốn đi, Mezzo-Morte đã thề là sẽ bắt được bà trước khi Rescator kịp trở tay.

Angélique nhìn mụ vẻ hãi hùng.

- Không thể như thế được - nàng lắp bắp - Mezzo-Morte làm sao mà biết được tôi đang ở đâu.

- Ồ, lão ta biết tất. Lão có do thám khắp nơi. Viên đại hoạn quan của Quốc vương Marốc, Osman Faraji, vẫn đến đây để tìm mua phụ nữ da trắng, và y đã ra công tìm kiếm bà.

- Tại sao?

- Bởi vì bà nổi tiếng là người nô lệ da trắng đẹp nhất Địa Trung Hải.">

- Ôi, ước gì tôi được xấu như ma - Angélique thốt lên vặn bẻ mấy ngón tay - Ước gì tôi được đui què và mẻ sứt.

- Như tôi đây này - Mụ Fatima nói - Khi bị bắt tôi mới mười tám và có cặp vú to đẹp. Nhưng tôi hơi thọt chân. Cái người đàn ông mua tôi và sau này trở thành chồng tôi, là một thợ gốm khéo tay ra trò ấy chứ. Ông ta nghèo khổ cả một đời và chẳng có tiền kiếm vợ lẽ. Tôi đã phải làm lụng cực nhọc như thân trâu ngựa, nhưng như thế còn thích hơn. Những người Công giáo chúng ta không muốn bị mua qua bán lại và làm vợ khắp thiên hạ.

Angélique đưa hai tay bóp đầu đang đau nhức:

- Tôi chẳng hiểu làm thế nào mà họ lại giăng bẫy bắt được tôi?

- Tôi nghe nói Mezzo-Morte cử quân sư của hắn là Amar Abbas đến gặp bà, khi bà ở Malte và lừa bà xuống tàu đi đến chỗ chúng giăng bẫy sẵn.

Angélique lắc đầu quầy quậy, không dám chấp nhận sự thật phũ phàng đó:

- Không... Tôi chẳng hề gặp ai cả... chỉ gặp người đầy tớ cũ của chồng tôi thôi. Gã tên là Mohammed Raki.

- Đó là Amar Abbas.

- Không! Không thể như thế được!

- Có phải gã là một tên Berber có chòm râu ngắn bạc phếch không nào?

Angélique cứng lưỡi không nói được một lời nào.

- Khoan đã - mụ già nói - Tôi vừa nảy ra một ý. Cách đây mấy phút tôi nhìn thấy Amar Abbas nói chuyện với Sadi Hassan, viên quản lý ở đây. Để tôi ra ngoài bên kia xem gã có còn quanh quẩn đâu đây không. Nếu có, tôi sẽ chỉ cho bà">

Một lát sau, mụ trở lại, cầm một tấm voan dài.

- Bà hãy quấn kín người đến tận mắt - Mụ nói.

Đoạn mụ dắt Angélique qua dãy hành lang dài ra tận ban công. Từ trên ban công hai người có thể nhìn thấy cái sân vuông của ngôi nhà.

Người ta đã bắt đầu cuộc bán nô lệ. Những nô lệ mới đến đều trần truồng. Những thân hình trắng lốp lông lá của người u tương phản với những thân hình ngăm đen nhẵn nhụi của người phương Đông. Bên phải, trên những tấm đệm sang trọng là các nhân viên quân sự và bọn cướp biển. Bọn này đã nhờ cướp bóc mà trở nên giàu có và đang tận hưởng khoái lạc trong các hậu cung mà chúng đã bỏ ngàn vàng ra mua. Chúng trồng ô-liu, cam và trúc đào quanh hậu cung và ngày càng thu nạp thêm nhiều gái đẹp. Chung quanh chúng là một lũ trẻ con da đen quạt luôn tay. Một trong những đại diện của Pasha được Ngài sủng ái nhất đến ngồi vào giữa bọn họ.

- Bà hãy nhìn - Mirelia nói - Cái gã ngồi cạnh y kia kìa.

Angélique dựa vào lan can và nhận ra Mohammed Raki.

- Đúng là tên ấy.

- Đấy, Amar Abbas đó, quân sư của Mezzo-Morte đó.

- Không! - Angélique kêu lên đầy tuyệt vọng - Không thể như thế được. Hắn đã đưa cho tôi xem bức thư và viên ngọc tôpaz!

Nàng cảm thấy chán chường, vô vọng, và suốt ngày hôm ấy nàng cố hiểu ra việc gì đã xảy đến với mình. Rốt cuộc Savary nghi tên Berber kia là đúng. Nhưng Savary bây giờ ở đâu? Nàng không hề nghĩ đến việc tìm kiếm lão trong đám nô lệ khốn khổ bị mang bán kia. Bây giờ sực nghĩ đến, nàng lại nhớ ra rằng nàng cũng chẳng nhìn thấy hai chàng hiệp sĩ đâu cả.

Dần dần tiếng lạo xạo lắng xuống. Khách hàng lần lượt trở về với các nô lệ mới mua. Bóng đêm trùm xuống Algiers. Trong đêm tối ở đất Hồi giáo chỉ còn nghe thấy một âm thanh sâu lắng lan đến tận chợ nô lệ.

Fatima-Mirelia ngả lưng trên đệm rơm cạnh đi văng, nơi Angélique cố chợp mắt một chút. Mụ ngẩng bộ mặt nhăn nheo lên và nói:

- Đó là tửu quán trong một thanh lâu.

Để giúp Angélique ngủ, mụ kể huyên thuyên về cái tửu quán nơi rượu vang và rượu mạnh chảy như suối. Đó là nơi bọn nô lệ gặp nhau để đổi những thứ ăn cắp được lấy một miếng ăn, và cũng là nơi những người ốm và bị thương đến để chữa chạy. Và cũng ở đó, khi ngọn đèn dầu đã lụi và ánh bình minh sắp ló, người ta kể cho nhau những chuyện kỳ thú nhất trên đời. Những người Đan Mạch và Thụy điển kể lại những chuyến săn cá voi ở ngoài khơi Greenland, nơi đêm dài hàng sáu tháng. Người Hà Lan mô tả những tài nguyên phong phú của miền Đông Ấn, kể các chuyện ly kỳ ở Trung Quốc và Nhật Bản, người Tây Ban Nha nói về những lạc thú ở Mêhicô và những châu báu ở Péru, người Pháp kể lại những kỳ quan của vùng đất nước Canada và Virginia. Vì tất cả những người nô lệ ở đấy đều đã từng đi biển.

Sáng hôm sau chúng đưa nàng đến bến cảng để gặp Ali Hadji. Một đám thiếu niên mặc quần lụa vàng, lưng đeo dao găm đầu quấn khăn vàng ngồi quây quần quanh y. Phần lớn là người Marốc và da đen, nhưng có một vài đứa có cặp mắt màu xanh của người phương Bắc chỉ sạm đen vì ăn nắng. Chúng nhìn Angélique với vẻ như khinh bỉ, ngạo mạn và căm thù. Nàng có cảm giác đang bị một đám sư tử con và hổ con bao vây. Ngược lại tên cướp biển nom hiền lành nhất.

Một chiếc xuồng thoi đang nhấp nhô bên chân cái thang kéo từ mặt nước đến tận boong tàu. Sáu nô lệ tóc vàng, chắc là người Nga, đang cầm chèo, và một tên Thổ ria dài đứng ở mũi tàu, hai cánh tay gân guốc khoanh trước ngực. Một chú bé nhảy xuống phía đuôi tàu và cầm lấy bánh lái.

Angélique bước xuống thuyền dưới những cặp mắt trơ trơ hỗn láo của bọn trẻ đang ngồi xúm xít ở mép thuyền như một bầy diều hâu. Nàng thắc mắc không biết thuyền sẽ đưa nàng đi đâu, vì nó đi lượn quanh đê chắn sóng rồi ra khơi, về phía một mũi đất có đồi thoai thoải, từ đó vọng lại tiếng súng hỏa mai và tiếng súng lục làm hiệu.

- Chúng ta đi đâu bây giờ?

Không ai trả lời. Một thằng bé nhổ nước bọt về phía nàng, nhưng không trúng. Khi tên Thổ dọa phạt thì nó toác miệng cười trơ trẽn. Những đứa bé này có vẻ chẳng sợ ai cả.

Một vài viên đạn nổ xoẹt trên mặt nước cạnh họ. Ali Hadji không hề nhúc nhích, nhưng y nhìn thấy vẻ thắc thỏm trên mặt Angélique. Hắn toét miệng cười và đưa tay ra hiệu rằng nàng thực sự là một quý khách.

Hai toán người xuất hiện quanh mũi đất. Một toán ở trên chiếc felucca do người Cơ đốc giáo râu ria mang kiếm và súng trường điều khiển, và toán kia gồm những thanh niên chít khăn vàng đã từ các tàu ở ngoài xa bơi đến chỗ felucca để đánh nhau. Chúng cứ lặn xuống dưới thuyền rồi lại trồi lên phía bên kia, nơi phòng thủ kém hơn, rồi như một bầy khỉ trèo lên hai bên mạn tàu, cắt dây cáp, đánh nhau tay không với bọn nô lệ, đảo người tránh những đường kiếm của họ cho đến khi túm được tay cầm kiếm.

Phía đuôi thuyền có một người mặc áo dài lửng và chít khăn vàng đang chăm chú theo dõi cuộc tập trận giả do y điều khiển. Thỉnh thoảng y cầm loa và tuôn ra một tràng lời chửi thề bằng thổ ngữ của bọn nô lệ để quở trách những đứa quá vụng về hay quá chậm chạp không tiếp tục chiến đấu vì bị nhiều thương tích hay mệt mỏi.

Lũ sư tử con trên xuồng thoi như bị hút hồn trước quang cảnh ấy, chúng háo hức muốn tham gia đánh trận giả nên nhảy ùm xuống nước như bầy ếch và bơi nhanh về chỗ chiếc tàu. Ngay cả bọn chèo thuyền cũng lơi tay chèo, nhưng làn mưa roi đã làm họ nhớ đến bổn phận của mình. Chiếc xuồng chồm lên và chẳng mấy chốc đã đến sát mũi chiếc felucca.

- Ta là Mezzo-Morte đây - Người đàn ông ở mũi thuyền nói bằng tiếng Pháp giọng Ý.

Hắn là một người vạm vỡ, và mặc dù ăn mặc như các nhân vật trong “Nghìn lẻ một đêm”, các viên kim cương sáng chói ở vành khăn và các ngón tay cũng không thể che giấu nổi gốc gác hạ lưu của hắn, một chú bé đánh cá nghèo khổ vùng Calibre. Giờ đây hắn là Đức ông Nguyên soái của Algiers chỉ huy hạm đội cướp biển ét tiếng nhất ở Địa Trung Hải. Hắn có thể ra lệnh cho Pasha, và cả thành phố đều kinh sợ hắn.

Angélique làm bộ chào hắn rất lịch sự, khiến hắn vô cùng thích chí. Hắn trân trân nhìn nàng tỏ vẻ hết sức hài lòng, và quay sang nói chuyện rất lâu với Ali Hadji. Qua cử chỉ và một chút tiếng Arập mà nàng học được, Angélique đoán là hắn khen ngợi Ali đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Song nàng lo lắng nhận thấy cái nhìn của hắn ném về phía nàng có vẻ là cái nhìn hăm dọa của tên cướp hơn là cái nhìn đánh giá của một tên lái buôn.

- Thưa Đô đốc - Nàng nói, dùng cái danh hiệu mà cả người Cơ đốc giáo cũng dùng để gọi hắn - xin Ngài vui lòng cho biết rồi đây số phận tôi sẽ ra sao. Xin ngài đừng quên rằng tôi không hề có ý định đánh lừa Ngài bằng một cái tên giả hay giấu ngài việc tôi có một tài sản to lớn ở Pháp, hay việc tôi ra đi chuyến này là để tìm lại chồng tôi, hiện đang ở Bône và bảo đảm có thể chuộc lại tôi.

Mezzo-Morte gật đầu tỏ vẻ tán đồng. Ở đuôi mắt hắn hiện thêm nhiều nếp nhăn, và nàng ngạc nhiên thấy hắn ngáp ngáp như cố nhịn cười.

- Tốt lắm, thưa bà - Hắn nói sau khi đã lấy lại vẻ mặt bình thường - Tôi rất yên lòng được biết chúng tôi không cần phải đi xa hơn Bône để thương lượng về khoản tiền chuộc bà. Nhưng liệu những gì bà nói có chắc chắn không?

Angélique khẳng định rằng nàng nói sự thật và lợi lộc gì đâu mà nói dối. Nếu hắn không tin lời nàng, hắn chỉ cần hỏi Mohammed Raki, cùng đi một chuyến tàu với nàng từ Malte. Gã được chồng nàng tại Bône cử đến gặp nàng.

- Tôi biết, tôi biết - Mezzo-Morte khẽ nói, nét mỉa mai trong ánh mắt của hắn nhuốm một vẻ tàn ác ghê gớm.

- Ngài biết thật ư? Lạy Chúa! - Angélique thốt lên, như chợt hiểu ra - Ngài biết chồng tôi à? Ngài biết thật à?

Tên cướp lắc lắc đầu như muốn nói: “Biết đâu đấy”. Rồi hắn cười hô hố. Hai chú thị đồng mặc chế phục màu xanh lục và hồng tươi cũng cười theo chủ. Hắn quát một tiếng ra lệnh, bọn chúng chạy biến và trở lại ngay mang đến một hộp kẹo mềm. Mezzo-Morte tọng mồm, rồi quay ra nhìn cuộc tập trận đang tiếp diễn trên boong tàu chính phía dưới.

- Thưa Đô đốc - Angélique trong lòng khấp khởi nói - Tôi van Ngài hãy nói thật, Ngài có biết chồng tôi không?

Cặp mắt đen của Mezzo-Morte như đâm xuyên vào mắt nàng.

- Không - hắn nói, giọng dữ dằn - Với lại đừng giở cái giọng ấy với ta. Bà đã bị bắt, hãy nhớ lấy điều đó. Người của ta bắt được trên chiếc tàu galê của bà tên thuyền trưởng nam tước Von Nessenood, kẻ thù không đội trời chung của ta. Hắn đã đánh đắm của ta một ngàn năm chục thuyền, ba mươi mốt galê, mười một thuyền chở hàng, bắt và giết mười một ngàn người và giải thoát một vạn rưỡi nô lệ. Thật là một ngày rất may mắn cho ta! Ta đã ném một hòn đá hạ được hai con chim, ngạn ngữ Pháp nói thế, có đúng không?