Chương 152: Chương 22

Angélique chợt cất tiếng phá tan cơn mơ màng của Ngài.

- Con biết tại sao các ngài không muốn để con đi. Đó là vì các ngài chưa nhận chuộc con.

Một vị giáo chủ rạng rỡ vì thích thú.

- Ta lấy làm vui sướng lấy điều đó làm cái cớ để ngăn không cho con làm một việc điên rồ nhưng thực ra ta vừa mới nhận được tin của ngân hàng ta tại Leghorn cho biết là số tiền con hứa đã được viên quản lý của con chuyển cho vị Trưởng tu viện của ta ở Paris. Mắt ngài ánh lên - Thôi được ta phải thú nhận rằng một con người vừa giành lại được tự do có thể dùng cái tự do ấy để hủy hoại bản thân nếu đó quả là một điều người ấy phải làm. Trong vòng một tuần nữa một chiếc gale của Nam tước Von Nessenood sẽ lại ra khơi tiến hành cuộc Thập tự chinh tảo thanh bờ biển Barbary. Ta cho phép con đi cùng.

Thế nhưng trước vẻ hân hoan của nàng mặt ngài vẫn trang nghiêm. Ngài nhíu mày, chỉ vào chiếc nhẫn giáo chủ đeo trên tay, dõng dạc nói:

- Hãy nhớ lấy lời cảnh báo của ta. Bọn Berber vô cùng tàn ác. Ngay cả bọn pasha Thổ Nhĩ Kỳ cũng phải gờm vì bọn cướp này chê trách chúng là quá thờ ơ trong vấn đề tôn giáo. Nếu chồng con là chỗ thân tình với chúng chẳng qua là vì y đã nhập bọn với lũ kia. Nếu con đứng về phía Cây thánh giá thì chỉ có lợi cho sự cứu rỗi của con thôi.

Thấy nàng vẫn không hề nao núng. Ngài ôn tồn nói:

- Con hãy quỳ xuống, để ta ban phước lành cho con.

Tàu gale rời bến để lại đằng sau những thành lũy màu hổ phách xứ Malte. Nam tước Von Nessenood đi đi lại lại trên boong tàu tự tin như một viên đô đốc thực thụ. Trong cabin bên dưới hai lái buôn san hô người Pháp đang trò truyện với một tên chủ ngân hàng Hà Lan ba hoa và một sinh viên Tây Ban Nha đi thăm bố là sĩ quan đồn trú tại Bône. Cùng với Angélique và Savary họ là những thường dân duy nhất trên tàu. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện sớm muộn rồi cũng xoay quanh vấn đề liệu họ có thoát khỏi tay bọn cướp biển Berber trong chuyến đi này không.

Angélique rất sốt ruột và không hiểu vì sao cảm thấy lo lắng. Đây chẳng giống điều nàng hằng mơ ước tí nào. Giá nàng không nhìn thấy viên ngọc Topaz thì chắc chắn nàng sẽ không tin chàng trai ấy. Trong mắt gã có cái gì đó rất xảo quyệt. Nàng đã cố gắng nhưng chẳng moi thêm được điều gì ở gã. Gã chỉ xòe tay nở một nụ cười khó hiểu như ói: “Tôi đã kể hết cho bà những gì tôi biết.”

Nàng sực nhớ những lời tiên đoán kinh khủng của Đêgrê. Làm sao mà Joffrey de Peyrac lại có thể đón tiếp nàng sau bao nhiêu năm đằng đẵng như vậy? Những năm tháng đã hành hạ thân xác và trái tim hai người. Mỗi người đều đã có những bi kịch khác của mình… những bạn bè khác… và cả những mối tình khác nữa. Hai người khó lòng mà lại đến với nhau.

Mái tóc vàng của nàng nay đã có đôi sợi bạc nhưng nàng vẫn còn trong độ thanh xuân, lại đẹp hơn nhiều so với ngày mới cưới. Hồi ấy các đường nét của nàng chưa thật định hình nên còn kém phần hấp dẫn. Thân hình nàng chưa đạt đến độ viên mãn hoàn toàn, hay dáng đi của nàng chưa có cái duyên dáng vương giả có thể gây được một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ. Tất cả những đổi thay này Joffrey de Peyrac không hề được chứng kiến và không hề được tác động đến. Bàn tay số mệnh đã khuôn đúc nàng ở một nơi hoàn toàn cách biệt với chàng.

Thế còn chàng? Bị số phận nghiệt ngã vùi dập, đọa đày, bị tước sạch của cải, bị vứt khỏi cuộc đời, liệu chàng có còn giữ nguyên được cái bản chất mà nàng đã từng thiết tha say đắm không?

“Ta lo sợ…”- Nàng thì thầm tự nhủ.

Nàng lo sợ cái giây phút siêu phàm kia, khi nàng được gặp lại chàng, sẽ bị một âm sắc nhuốc nhơ nào đó phá hỏng. Đêgrê đã từng cảnh báo nàng về cái khả năng này. Nhưng nàng không tin được là Joffrey de Peyrac lại có thể sa đọa đến thế.

Những mối hoài nghi đang dằn vặt nàng khiến nàng hầu như tê dại. Như một đứa trẻ nàng cứ tự nhủ với mình rằng nàng muốn gặp lại “chàng”, tình yêu của nàng, người tình của nàng trong lâu đài Học vui chứ không phải một người khác, một kẻ xa lạ ở nơi đất khách quê người. Nàng khát khao được nghe lại giọng hát mê li của chàng. Thế nhưng Mohamed Raki chẳng hề nói tới giọng hát đó. Ở Barbary có được hát không? Dưới ánh mặt trời gay gắt kia, giữa lũ người da ngăm đen sẵn sàng chặt đứt đầu ta như xén một mớ cỏ dại kia? Ôi cái gì đã xảy ra với chàng…?

Nàng cố gắng tạo dựng lại những ký ức của dĩ vãng, cố hình dung một lần nữa sự hiện diện của Bá tước Toulouse dưới vòm Lọc vui. Nhưng viễn cảnh ấy đã tan biến đi. Rồi nàng muốn ngủ vì giấc ngủ sẽ xua tan màn sương che khuất mặt trời không cho nàng nhìn thấy người mình yêu. Trong tình trạng lơ mơ nàng như nghe thấy bên tai giọng ai thì thầm rủ rỉ: “Bà mệt rồi… bà sẽ ngủ tại nhà tôi… ở đấy có hoa hồng… rất nhiều đèn… có cửa sổ nhìn ra biển…”

Nàng hét lên và tỉnh giấc, Savary đang cúi xuống bên nàng, lay lay nàng.

- Phu nhân Plessis, tỉnh dậy đi thôi. Bà sắp đánh thức cả tàu bây giờ.

Angélique tựa vào thành giường đứng lên. Đêm đã xuống. Trên tàu gale không còn nghe tiếng càu nhàu của bọn nô lệ chèo thuyền nữa, vì tàu gale đã chạy bằng buồm, các mái chèo đã gác lên mạn tàu. Chỉ còn nghe tiếng bước chân Nam tước Von Nessenood qua lại trên boong. Chiếc đèn hiệu trên đuôi tàu đã được che bớt để khỏi thu hút sự chú ý của bọn cướp biển vì bọn chúng thường hay lảng vảng trên eo biển, giữa Malte và Sicile bên phải và bờ biển Tunis bên trái tàu.

Angélique thở dài:

- Tay phù thủy đang đuổi theo tôi trong giấc mơ.

- Giá chỉ là một giấc mơ thôi - Savary nói.

- Cụ định nói gì ? Cụ đang nghĩ gì thế?

- Tôi nghĩ rằng một tên cướp biển bạo gan như Rescator chẳng khi nào chịu để bà trốn thoát mà không tìm cách cướp lại cái đã thuộc về hắn.

- Tôi không thuộc về hắn - Angélique cãi lại

- Hắn đã trả một số tiền bằng giá cả một chiếc tàu để mua bà.

- Từ nay chồng tôi sẽ bảo vệ tôi - Nàng nói bằng một giọng không tự tin lắm.

Savary lặng thinh.

- Cụ Savary này - Angélique thì thầm - Cụ có tin đây là một cái bẫy không? Tôi biết cụ nghi cái gã Mohamed Raki thế nhưng gã có nhiều chứng cớ phải không?

- Đúng thế!

- Chắc gã có gặp người chú, vì gã có bức thư của tôi. Và gã đã gặp chồng tôi. Gã đã nói những điều mà chỉ có tôi mới biết, những điều mà tôi đã quên bẵng đi bao nhiêu năm nhưng lúc đó lại nhớ ra ngay. Trừ phi… ôi, cụ Savary, cụ có tin rằng cái điều tôi mong muốn nhất đời chỉ là một ảo vọng, và do đó càng dễ bị đưa vào bẫy không? Ôi cụ Savary tôi sợ lắm…

- Những chuyện ấy có thể xảy ra - Dược sư nói - Nhưng đừng nghĩ rằng nó ứng vào trường hợp này. Có thể đó là một cái bẫy, nhưng không phải là bẫy thần, Mohamed Raki đã không nói hết sự thật với chúng ta. Hãy đợi đến kết cục. Lúc đó mọi sự sẽ rõ ràng - Lão đang hòa một viên thuốc trong chén thiếc - Bà uống thuốc này sẽ thấy dễ chịu hơn.

- Có phải đây là cái chất maumie của cụ không?

- Bà thừa biết tôi chẳng còn tí maumie nào cả - Savary nói giọng chán chường. Tôi đã dùng hết sạch trong vụ cháy ở Candia.

- Cụ Savary, sao cụ lại cứ một mực đi cùng tôi trong chuyến đi mà cụ không tán thành?

- Làm sao tôi có thể bỏ bà được? - Lão trả lời như thể lão đang mải suy ngẫm về một bài toán khó - Đúng là tôi không tán thành, nhưng tôi sẽ đi đến Algiers.

- Đến Bône chứ?

- Cũng thế thôi.

- Ở Bône người Cơ đốc giáo ít nguy hiểm hơn ở Algiers?

- Ai mà biết được - Savary nói, lúc lắc đầu.

Thình lình bầu trời đêm bị xé toạc bởi một vệt sáng kỳ quặc; vệt sáng đổi màu nhiều lần và cuối cùng tóe ra chùm ánh sáng muôn màu sắ

- Pháo hiệu!

Cả tàu bừng dậy, xôn xao. Thủy thủ và lính thủy chạy ngược xuôi gọi nhau í ới. Angélique bấu lấy Savary. Cảnh tượng này làm nàng nhớ đến lúc mở màn trận thủy chiến giữa chiếc Gale hoàng gia và tàu Xêbéc của Rescator.

- Cụ Savary cụ có cho rằng ta có thể gặp lại tên cướp biển ấy không?

- Thưa bà, bà cứ nói như thể tôi là một chiến lược gia có phép thần, cùng một lúc có mắt ở cả hai chiếc tàu. Một pháo hiệu Thổ Nhĩ Kỳ không có nghĩa là Rescator. Đó cũng có thể là tàu tuần tra Algiers Tunis hay Marốc.

- Nhưng hình như nó được bắn từ trên chiếc tàu này.

- Thế thì trên tàu có nội ứng.

Không đánh thức các hành khách khác, hai người đi lên boong. Tàu gale tuồng như đang đi theo một đường ngoằn ngoèo hẳn là để đánh lạc hướng kẻ thù. Angélique nghe tiếng Roguier nói khi ông cùng Hiệp sĩ người Đức từ mũi tàu trở lại.

- Đại huynh ạ, có lẽ đã đến lúc ta phải mặc áo giáp rồi.

- Không, chưa cần.

- Các ngài đã tìm ra cái tên nội ứng bắn pháo hiệu chưa? - Angélique hỏi.

- Có tìm nhưng chưa ra. Rồi hắn sẽ bị trừng trị sau. Hãy nhìn kìa!

Nàng nhìn rõ một nguồn sáng cách xa mũi tàu. Nàng thắc mắc không hiểu đó là đất liền hay chỉ là một hòn đảo. Các vệt sáng hình như di chuyển, tiến về phía tàu. Thoạt tiên theo một đường thẳng, sau đó theo một đường vòng cung.

- Phục kích! Báo động! - Nam tước Von Nessenood gầm lên.

- Mọi người chạy về vị trí và bắt đầu dựng lên một hàng rào cọc cao khoảng hai mét dùng để tấn công con tàu cao hơn tàu họ.

Angélique đếm được ba mươi vệt sáng di động trên mặt nước.

- Bọn Berber! -Nàng khẽ nói.

De Roguier đi ngang qua nghe tiếng nàng:

- Đúng thế. Nhưng đừng hốt hoảng. Chỉ là một thuyền nhỏ chắc chắn không dám tấn công chúng ta trừ phi chúng có tiếp viện. Tuy nhiên cũng có thể là nghi trang. Phải chăng chúng đang nằm chờ chúng ta? Phát pháo hiệu hình như là dấu hiệu của phục kích. Dẫu sao chúng ta cũng chẳng tội gì phải phung phí đạn dược trong một trận đụng độ vớ vẩn, trong khi chúng ta có thể dễ dàng tránh được. Bà vừa nghe thấy thuyền trưởng nói không phải mặc áo giáp. Chúng tôi không bao giờ làm như thế trừ lúc lâm trận, để binh lính khỏi mất tinh thần. Nam tước Von Nessenood là một con mãnh hổ trong trận mạc, phải đương đầu với ít nhất là ba gale ông ấy mới chịu liều hi sinh người và tàu của mình.

Mặc dù Hiệp sĩ quả quyết rằng những thuyền ấy chẳng phải là một lực lượng đáng ngại, nàng nhận thấy chúng đang đuổi rất nhanh theo con tàu quá tải đang dong hết buồm và chèo thật lực.

Chẳng mấy chốc các vệt sáng mờ dần. Một lát sau hòn đảo như một khối núi khổng lồ màu sẫm hiện ra sừng sững phía trước. Hai Hiệp sĩ tra cứu bản đồ dưới ánh đèn bão.

- Đây là đảo Cani - Hiệp sĩ người Đức nói - Đường vào vụng rất hẹp, Chúa phù hộ chúng ta có thể lọt qua. Ta sẽ có cơ hội tiếp nước ngọt và tìm một chỗ trú ẩn tránh các gale của Tunis vì chẳng mấy chốc chúng sẽ hợp lực với đoàn thuyền chúng ta vừa chạm trán. Chỉ có một ít hộ ngư dân trên đảo, và chắc họ không ngăn cản chúng ta lên bờ. Thậm chí họ chẳng có lấy một pháo đài hay một khẩu súng.

Nom thấy Angélique đứng gần đấy, Von Nessenood giận dữ nói thêm:

- Thưa bà, bà đừng nghĩ rằng các Hiệp sĩ Malte là một lũ hèn nhát. Có điều là chúng tôi muốn đưa bà đến Bône an toàn, không phải chỉ vì tấm lòng tận tụy của tôi đối với bà mà cũng là vì giáo chủ chúng tôi đã ó bà cho tôi. Trên đường trở về chúng tôi sẽ tính sổ với các địch thủ của chúng tôi sau.

Angélique cám ơn họ, lòng vô cùng cảm kích.

Trời sáng dần, nàng nhìn thấy một bãi cát con bên vụng nhỏ, với những hàng ôliu chạy dài ven bãi. Nàng ở lại trên boong, tự nhủ là mình không được ngủ trước khi đến Bône tuy biết rằng như thế là hoàn toàn vô lí.

Chiếc gale thận trọng đợi ở cửa vụng cho đến khi trời sáng rõ. Nam tước Von Nessenood quan sát khắp vùng chung quanh khi sương mai tan dần. Bỗng ông quay về phía Henri de Roguier rồi cả hai lập tức lui vào trong. Khi họ trở ra cả hai đều mặc áo giáp đỏ.

- Có việc gì thế? - Angélique kêu lên.

Đôi mắt trong veo của Hiệp sĩ người Đức sáng rực. Ông rút kiếm ra và tiếng hô xung trận của Dòng tu bật ra từ đôi môi ông!

- Bọn Saracen! Sẵn sàng chiến đấu!

Cùng lúc đó một loạt đạn và tên từ vách đá bắn xuống boong tàu, chẻ đôi chiếc rầm néo buồm.

Trời đã sáng hẳn. Họ nhìn thấy sáu khẩu pháo lấp ló dưới bụi cây, nòng chĩa về phía tàu gale. Trong tiếng gầm rú của đại bác, Hiệp sĩ ra lệnh phải quay mũi tàu và rút khỏi vụng. Trong khi chấp hành mệnh lệnh một cách khó nhọc, các lính thủy khiêng các hòm đạn lên boong và đặt vào vị trí. Một số khác, cầm súng hỏa mai, cố sức bắn trả, nhưng không tới. Trên boong tàu đã có một số người chết hoặc bị thương. Có tiếng kêu thét vọng lên từ hầm nô lệ, nơi mà cả một dãy tay chèo bị diệt sạch.

Rồi một khẩu cối trên tàu nhằm đúng một khẩu pháo trên bờ nhả đạn, một tên da đen chới với và từ trên vách núi cao rơi tòm xuống biển. Một khẩu đại bác bắn tan xác hai pháo thủ bên một pháo khác. Còn bốn khẩu nữa! De Roguier hét lên - Cứ để chúng bắn. Khi chúng hết đạn ta sẽ bắn nát đầu chúng.

Nhưng trên đỉnh vách đá đã thấp thoáng những vành khăn trắng và vụng nhỏ vang lên tiếng thét khủng khiếp: “Đồ chó, đầu hàng đi!...” Hơn nữa lối ra vào v đã bị đoàn thuyền con ban tối chặn lại.

Nghe phát súng đầu tiên, Savary đã kéo Angélique vào cabin nhưng nàng vẫn đứng lại ở lối cửa để theo dõi cuộc đọ sức chênh lệch. Quân Hồi giáo đông hơn quân Malte năm, sáu lần. Pháo trên gale chỉ dùng để chiến đấu trên mặt biển, chứ không phải những mục tiêu cao hơn. Số cướp trên bờ càng lúc càng tăng và trong cơn phấn khích trước việc chiến thắng dễ dàng chúng nhảy ùm xuống nước để bơi ra gale. Một số thuyền con đã được thả xuống từ trên bờ. Chúng áp sát con tàu và nhiều tên lao xuống nước, một tay cầm đuốc, một tay bơi.

Các tay thiện xạ nhằm chúng bắn tỉa và hạ được một số. Nước biển đỏ ngòm máu địch. Nhưng đứa trước chìm đứa sau bơi tới. Chẳng mấy chốc, mặc dù hỏa mai và đại bác bắn dữ dội, hai bên tàu Gale đã đầy nhung nhúc những người. Chúng la hét vung đuốc, dao găm, gươm và cả súng.

Tàu Gale xứ Malte nom giống một con hải âu khổng lồ bị thương đang bị một bầy kiến xâu xé. Bọn Marốc quây tàu nhảy phóc lên boong và thét to: “Va Allah! Allah!”

- Chân đạo muôn năm! - Nam tước Von Nessenood đáp lại, thúc kiếm đâm xuyên người tên Ả Rập đầu tiên đặt chân lên boong tàu. Nhưng tên khác lại nhảy tiếp lên, rồi những tên khác nữa. Hai Hiệp sĩ và các chiến hữu của họ phải lùi dần, họ vẫn tiếp tục chống trả quyết liệt cho đến tận chân cột buồm chính. Xác chết chồng chất khắp nơi. Hình như chẳng tên nào nghĩ đến chuyện cướp bóc, chỉ lao vào chém giết càng nhiều càng tốt.

Angélique khiếp sợ nhìn một trong các lái buôn san hô vật lộn với hai thanh niên Marốc. Họ cào cấu cắn xé nhau vì cả ba người không ai có vũ khí.

Cuộc phòng thủ duy nhất có hệ thống đang diễn ra ở chân cột buồm chính, nơi hai Hiệp sĩ chiến đầu như hai con mãnh hổ. Trước mắt họ là một đống xác chết xếp thành nửa vòng tròn, mà viện binh Marốc phải vượt qua để tiến lên. Một viên đạn do một tên Hồi giáo bắn lén từ mũi tàu quật ngã Von Nessenood. Roguier liếc nhìn thuyền trưởng của mình, và giây phút sơ ý đó đã làm cho chàng bị thương ở bàn tay cầm kiếm.

Người lái buôn san hô sau khi đã hạ được hai tên Marốc lôi chiếc thang xuống cabin và đẩy Angélique vào bên trong. Savary, người lái buôn san hô còn lại, lão chủ ngân hàng, và cậu sinh viên Tây Ban Nha cũng đã nấp cả trong

- Thế là hết… - Y nói - Hai Hiệp sĩ đã ngã. Chúng ta sắp bị bắt. Đã đến lúc ta phải vứt giấy tờ xuống biển và cải trang để bọn chúng không nhận ra cương vị xã hội của chúng ta. Đặc biệt là cậu - Y bảo cậu sinh viên Tây Ban Nha - hãy cầu xin Đức mẹ đồng trinh để chúng không phát hiện ra là cậu là con trai một sĩ quan đồn trú ở Bône. Bằng không chúng sẽ bắt cậu làm con tin, và hễ có tên Marốc đầu tiên nào bị giết dưới các thành lũy Tây Ban Nha thì chúng gửi ngay thủ cấp của cậu cho bố cậu đấy.

Ngay trước mắt Angélique cả bọn đàn ông cởi hết quần áo ra cuộn thành một bó cùng với giấy tờ và vứt cả xuống biển. Rồi họ vớ quần áo rách rưới trong tủ ra mặc vào người.

- Chẳng có lấy một chiếc áo váy nào trong đó cả - một tay lái buôn hoảng hốt nói - Thưa bà, bọn chúng sẽ nhận ra bà là một mệnh phụ. Có trời mà biết chúng sẽ đòi tiền chuộc bao nhiêu.

- Tôi thì tôi chẳng cần gì sất - Savary nói - Chúng vớ được tôi thì việc đầu tiên là chúng ném tôi ngay xuống biển như là một thứ vứt đi.

Ở nóc thang xuất hiện một tên da đen lực lưỡng cặp mắt trắng dã nổi bật lên trên khuôn mặt đen thui. Hắn đưa mắt nhìn đám người chen chúc trong cabin tay vung cao thanh mã tấu.

Cả tàu im phăng phắc, chỉ nghe tiếng kêu rên của những người bị thương. Những người bị bắt bị đẩy lên boong tàu.

Bốn chiếc gale thấp đang tiến vào vụng. Viên đô đốc đội thuyền con đứng ở đuôi chiếc gale đầu tiên. Hắn trèo xuống tàu Malte theo sau là các sĩ quan, và một tên thư lại có nhiệm vụ ước tính giá trị của chiến lợi phẩm. Y nhăn mặt khi nhìn thấy tàu gale bị hư hỏng quá nhiều. Hắn đưa ra những lời nhận xét chua cay về việc này và ra lệnh thống kê đầy đủ số người bị bắt cùng tài sản của họ.

Các nô lệ chèo thuyền gốc Algiers được thả hết. Những người khác được chuyển sang chỗ những người Algiers. Toàn thể đoàn thủy thủ Malte bị xích chân. Angélique nhìn thấy Henri de Roguier đi qua, máu me đầm đìa, tay bị còng. Rồi đến Nam tước Von Nessenood do ba người cao lớn lực lưỡng khiêng. Ông cũng bị xích chân, mặc dù những vết thương khủng khiếp đang tuôn má

Những người bị bắt được đưa đến trước viên đô đốc tên là Ali Hadji. Hắn không thèm để ý đến cách cải trang của họ, chỉ nhìn bàn tay họ xem có phù hợp hình thức bề ngoài hay không. Nhưng đến lượt Savary thì chúng cười phá lên. Chúng đẩy lão sang một bên nói rằng sẽ dành lão cho những con chó đói nhất Algiers.

Ngay lập tức bọn cướp dồn sự chú ý vào Angélique. Những cặp mắt đen của các sĩ quan Algiers xem xét nàng với một sự tò mò không phải là không pha lẫn kính nể, thậm chí khâm phục. Họ trao đổi rất nhanh với tên Ali Hadji. Y bèn ra hiệu bảo nàng đến gần.

Đối với bất cứ ai đã liều mình đi biển, việc bị bọn Berber bắt là một chuyện quá bình thường, vì thế Angélique hầu như đón chờ chuyện đó. Nàng đã sắp đặt chu đáo các kế hoạch và đã quyết định sẽ phải làm gì. Nàng sẽ chẳng giấu giếm gì cả, mà sẽ phó thác hoàn toàn cho vận may của mình và cho cảnh ngộ một người đàn bà đi tìm chồng. Bọn Algiers không phải là những tên cướp vớ vẩn. Chúng không lấy đánh nhau và cướp bóc chỉ để làm thú vui. Mà “kỹ nghệ” của chúng quy theo những đường lối nghiêm ngặt. Chiến lợi phẩm, từ vật quý nhất cho đến mảnh buồm rách đều được mang ra chia và được liệt kê cẩn thận để quy thành tiền. Đối với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ người u, là của hiếm và giá cao, tính hám của luôn luôn vượt lên trên nhục dục. Angélique đã từng thể nghiệm điều này với Hầu tước d’ Escrainville. Vì thế nàng rất thanh thản đương đầu với những cặp mắt thèm khát của bọn da ngăm ngăm đen đứng trước mặt nàng.

Nàng cho chúng biết tên nàng, một cái tên mà bao nhiêu năm nay nàng không sử dụng. Nàng là vợ của Joffrey de Peyrac người đang đợi nàng ở Bône và chắc chắn sẽ có thể chuộc nàng. Ông ấy đã cử một người đưa tin đến, một người cũng theo Hồi giáo, tên là Mohamed Raki. Gã có thể ở lẫn với số tù và có thể làm chứng cho nàng.

Nghe tên thông ngôn phiên dịch, Ali Hadji mỉm cười tỏ vẻ hài lòng. Hắn ra lệnh đưa tên Raki đến. Từ nãy đến giờ Angélique vẫn lo gã đã bị thương hay bị giết chết trong trận chiến đấu vừa qua nhưng giờ đây nàng nhìn thấy gã và chỉ đúng gã. Ngay tức khắc Ali Hadji ra lệnh đưa gã lên tàu riêng biệt.

Đội thuyền rời vụng và ra khơi. Các thuyền con nặng đến mức không ai có thể cựa một tí mà không khiến cả con thuyền tròng trành và đi chậm lại. Chỉ có đoàn thủy thủ da đen và Marốc là lên chạy xuống trên con đường nhỏ giữa hai dãy nô lệ chèo thuyền, vung roi quất vào đám nô lệ Công giáo.

Mấy lần Ali Hadji đưa mắt liếc nhìn Angélique. Nàng đoán là hắn đang nói chuyện với tên thư lại về nàng nhưng chẳng hiểu chúng nói gì. Savary rón rén đến bên cạnh nàng.

- Tôi không biết Mohamed Raki có xác nhận những gì tôi bảo chúng không - Nàng thì thầm - Và chồng tôi sẽ nghĩ gì về toàn bộ câu chuyện này. Cụ có nghĩ rằng chồng tôi sẽ bỏ tiền ra chuộc tôi không? Chồng tôi có giúp tôi không? Tôi đang đến với ông ấy, nhưng giờ đây tôi nhận ra rằng tôi không biết hết về ông ấy. Nếu ông ấy sống lâu như thế với bọn Berber có thể ông ấy sẽ dàn xếp với bọn chúng dễ dàng hơn bất cứ ai khác. Vừa rồi tôi tự giới thiệu như vậy, cụ thấy có phải không?

- Bà làm như thế là phải. Tình hình vốn đã phức tạp rồi, bà chẳng cần phải làm cho nó phức tạp thêm. Chí ít bà cũng tránh được cảnh lăng nhục khủng khiếp nhất khi bà phải ra trước tòa án Hồi giáo. Kinh Koran cấm bất kỳ tín đồ nào lấy một người đàn bà có chồng còn sống. Họ rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình. Nhưng mà này, tôi nghe Ali Hadji nói khi bọn chúng đưa bà đến trước mặt hắn: “Đúng rồi, đúng là bà ta. Sứ mệnh của chúng ta thế là hoàn thành”.

- Thế nghĩa là thế nào hả cụ?

Ông già khẽ nhún vai.

HẾT


[1] Signor: tiếng Ý, nghĩa là Ngài, là Quí ông.

[2] Trời ơi, cậu bé xinh trai quá!

[3] Ôi thánh mẫu! Cô gái kia mới xinh đẹp làm sao.

[4] Inca: một tộc người da đỏ tại miền Nam châu Mỹ.

[5] Vùng Levant: miền cận đông

[6] Canebière: đại lộ Canebière rất nổi tiếng của Marseille.