Suốt mấy giờ liền tàu Hermes thả neo ở cảng Candia, thủ phủ của đảo Crète. Ánh sáng nhòa dần nhưng màu sắc dữ dội gợi cho ta nhớ tới phương Đông, và ngọn gió nồm đượm mùi dầu nóng và cam. Mặt trời nhuộm đỏ cả những phiến đá ở bến, và lớp bụi màu hồng nhạt nhuộm cả thành phố cùng các công sự kiểu Venise, vẫn còn vết máu của trận chiến đấu gần đây nhất. Crète trước kia là một hòn đảo Cơ đốc giáo, gần đây bị người Hồi giáo chiếm. Những người chủ mới cho thấy sự có mặt của họ qua những tháp ở nhà thờ Hồi giáo trắng như nến vươn hẳn lên các tháp thờ kiểu Venise và các nhà thờ hình vòm Hi Lạp.
Tàu vừa đến nơi, d’Escrainville xuống xuồng đi ngay vào bờ.
Angélique đứng trên boong tàu ngắm nhìn thành phố và đợi xem cuộc hành trình điên rồ của nàng sẽ kết thúc ra sao.
Nàng nhìn thấy một chiếc tàu ba buồm rất sang với mười hai khẩu đại bác sáng loáng. “Có phải tàu Pháp không?” Nàng tự hỏi lòng bỗng chứa chan hi vọng.
Savary đang ngồi cạnh nàng, chiếc ô kẹp giữa hai đầu gối ngẩng lên nhìn lo lắng:
- Đó là một tàu gale xứ Malte. Xem lá cờ đỏ có chữ thập trắng kia. Hạm đội Malte là hạm đội đẹp nhất Địa Trung Hải, vì các Hiệp sĩ Cơ đốc giáo rất giàu. Dù thế nào thì một người tù như bà phỏng còn mong đợi được gì ở những người Pháp tại Candia?
Lão giải thích là dù Candia là của Hi Lạp, Pháp, Venise hay Thổ thì như bao nhiêu thế kỷ nay nó vẫn là nơi ẩn náu của bọn cướp biển Cơ đốc giáo, cũng hệt như Alexandria đối với người Thổ, và Algiers đối với người Berber.
Angélique ngắm nhìn các hàng hóa chồng chất trên bến và trên các tàu: Những kiện vải, cá và những thùng dầu và hàng đống dưa hấu. Nhưng số hàng ít ỏi đó xem ra chẳng ăn nhập gì với số lượng rất lớn tàu cập bến.
- Đa số là tàu chiến - Nàng nhận xét - Chúng đến đây làm gì?
- Kìa, thế chúng ta làm gì ở đây? - Savary vừa nói vừa nhấp nháy đôi mắt - Cứ nhìn phần lớn các tàu này mà xem. Các hầm đều đóng kín trong khi các tàu buôn chở hàng hợp pháp đều để ngỏ khi đến cảng. Hãy nhìn các lưỡi lê của bọn gác trên boong tàu, chúng nó gác cái gì? Loại hàng quý giá nhất.
Angélique bất giác rùng mình:
- Nô lệ à? Bọn kia đều buôn nô lệ ư?
Savary không đáp. Một chiếc xuồng thoi khốn khổ đang đi ngoằn ngoèo về phía tàu Hermes. Một người u đội mũ cắm lông và mặc bộ trang phục thảm hại đứng ở mũi tàu, vẫy vẫy một lá cờ bằng chiếc mùi soa có thêu hoa huệ vàng trên nền bạc.
- Một người Pháp - Angélique thốt lên. Mặc dù Savary đã khuyên can nàng vẫn cố tìm những người đồng bào, may ra họ có thể cứu nàng thoát.
Người trên xuồng thoi nghe tiếng nàng, và sau một phút suy nghĩ nghiêng mũ chào nàng.
- d’ Escrainville có trên tàu không? - Hắn gào lên.
Chẳng ai buồn trả lời, và thế là y leo lên chiếc thang bên cạnh tàu. Mấy người gác chẳng ngạc nhiên hay phản đối gì chuyến viếng thăm không đúng lúc này. Họ tiếp tục nhai hạt hướng dương và chơi bài.
- Tôi hỏi ông chủ các người có ở đây không? - Người mới đến tới sau lưng họ nhắc lại câu hỏi
- Có lẽ ông có thể tìm thấy ông ta trên phố - Người kia đáp, chẳng hề nhúc nhích.
- Ông ta có gửi lại cho tôi một gói gì không?
- Tôi không phải là thủ kho - người kia nói, phun vỏ hạt hướng dương rồi trở lại chơi bài.
Người đàn ông xoa xoa chiếc cằm lởm chởm râu, tỏ vẻ khó chịu. Vừa lúc ấy, Hellice cô gái nô lệ người Hi Lạp từ trong một cabin bước ra - Cô ta mỉm cười với y rồi đến nói thầm với Angélique:
- Đó là ông Rochat, ông lãnh sự Pháp, bà có muốn nói chuyện với ông ta không? Có lẽ ông ta có thể giúp bà. Tôi sẽ mang đến cho bà ít rượu vang Pháp.
- Ồ, tôi nhớ ra rồi - Angélique nói - Rochat là người phó của ta ở Candia. Có lẽ ông ta có thể giúp làm một cái gì đó cho chúng ta.
Nhưng vừa lúc đó Rochat cũng phát hiện ra rằng chàng thanh niên mà y nhìn thấy ở mũi tàu thực ra là một phụ nữ mặc quần áo nam giới, và y đi về phía nàng.
- Rõ ràng là ông bạn d’ Escrainville của tôi vẫn còn hên. Cho phép tôi tự giới thiệu thưa cô lữ khách xinh đẹp, tôi là Rochat, phó lãnh sự của Đức vua Pháp tại Candia.
- Và tôi - nàng nói - là nữ Hầu tước Plessis-Bellières, lãnh sự của Đức vua Pháp tại Candia.
Mặt của Rochat lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa không tin, vừa lo ngại, vừa ghê sợ.
- Ông không nghe tin tôi đã mua cái phẩm tước ấy sao? - Angélique bình tĩnh hỏi.
- Đúng là tôi có biết nhưng cho phép tôi được choáng váng một lúc thưa bà. Giả dụ bà thật sự là Nữ Hầu tước Plessis-Bellières thì cái gì đã xui khiến bà phiêu bạt đến đây? Tôi muốn có một vài bằng chứng về điều bà nó
- Ông phải tin lời tôi, thưa ông. Ông bạn của ông, Hầu tước d’ Escrainville đã đánh cắp giấy tờ của tôi khi ông ta bắt được tôi ngoài biển.
- Tôi hiểu rồi - nhà ngoại giao ăn mặc tiều tụy nói, hỗn xược nhìn Angélique và Savary - Thế ra các vị là khách bất đắc dĩ của ông bạn tôi?
- Vâng. Và thầy Savary đây là quản gia và cố vấn của tôi.
Savary lập tức đảm nhiệm cái vai trò nàng vừa mới gán cho lão.
- Ta không nên mất thì giờ quý báu của chúng ta - lão nói - Thưa ông, chúng tôi đề nghị một việc sẽ mang lại cho ông một trăm livre ngay.
Rochat lúng túng nói rằng y không hiểu nổi làm sao những người bị bắt lại có nhiều tiền đến thế… Y hình như đang tranh luận với bản thân. Y vuốt lại chỗ đăng ten sờn ở ngực áo.
Hellice trở lại, bưng một cái khay có một bình rượu cùng với mấy cái cốc và đặt trước mặt ba người. Rồi cô ta lui vào, đúng phép của một người hầu. Thái độ kính nể của cô ta đối với Angélique hình như đã làm cho Rochat tin rằng y không phải đang nói chuyện với một nô lệ bình thường mà với một mệnh phụ phu nhân. Sau khi chuyện vãn một lúc, trao đổi về những nhân vật hai người cùng biết, Angélique đã hoàn toàn thuyết phục được ông lãnh sự phó. Nhưng điều này lại khiến y lúng túng lo sợ.
- Xin lỗi bà, rơi vào tay d’ Escrainville quả là điều tệ hại nhất cho bà. Hắn khinh rẻ phụ nữ và một khi hắn đã quyết chí trả thù người đàn bà nào thì khó có gì có thể làm hắn động lòng. Về phần tôi, tôi chẳng làm gì được đâu. Bọn buôn nô lệ có quyền muốn làm gì thì làm trong thành phố này. Tôi chẳng có quyền lực gì cả trên cả hai phương diện tài chính và hành chính. Vì thế đừng trông cậy vào tôi. Tôi mà can thiệp vào công việc của Hầu tước d’ Escrainville thì có cơ mất hết cả chút ảnh hưởng còn sót lại của một phó lãnh sự.
Rồi vừa xốc xốc lại bộ trang phục lôi thôi lếch thếch, mắt nhìn chăm chăm vào đôi giày tơi tả, y cố phân bua tình cảnh của mình. Y là con trai út của Bá tước Rochat. Vì không có gia tài, từ năm lên tám y đã được gửi sa một trung tâm ngoại giao ở miền Levant để học ngoại ngữ. Đó là một cách giải quyết đối với con em nhà nghèo, tức là, cho chúng học ngôn ngữ và phong tục tập quán của một nước để sau này làm phiên dịch cho một đại sứ. Y được nuôi nấng học hành ở khu người Pháp tại Constantinople đã kết bạn với con cái pasha. Chính tại đó y đã học xong chương trình của một trường Hồi giáo ở đây và gặp chàng trai d’ Escrainville cũng là một học sinh ngoại ngữ. Hai người cùng tốt nghiệp một năm, và chàng trai d’ Escrainville bắt đầu sự nghiệp của mình cho đến ngày hắn phải lòng bà vợ xinh đẹp của một đại sứ Pháp tại Constantinople. Bà ta có một người tình đang mắc nợ. Để thanh toán những khoản vay mượn này mà không để cho đại sứ biết, bà ta yêu cầu d’ Escrainville làm một số giấy tờ giả. d’ Escrainville quá mê bà ta nên đã nhận lời.
Đương nhiên hắn phải trả giá khi vụ gian lận này bị vỡ lở. Người đẹp chối phắt, thậm chí còn tìm cách gán cho hắn thêm một vài tội khác. d’ Escrainville điên đầu vì chuyện này. Hắn bán chức vụ của mình và mua một chiếc thuyền con đi cướp biển một mình. Thực vậy, hắn đã tìm ra một lối thoát tốt hơn ông bạn Rochat của hắn. Anh chàng này cố vật lộn để tiến thân bằng con đường ngoại giao, nhưng đã thất bại vì chẳng biết gì về những âm mưu của các cận thần ở Triều đình, những kẻ chuyên mua bán lại các chức vụ ngoại giao. Y chỉ được biết rằng y có quyền hưởng hai phẩy năm phần trăm giá trị của các hàng hóa đi qua Candia. Nhưng suốt bốn năm nay cả Phòng Thương mại Versailles lẫn Colbert, Bộ trưởng Tài chính Pháp cũng chẳng nhớ trả tiền cho y, nhưng rõ ràng vẫn tiếp tục dốc hết số tiền y nộp vào túi của người tiền nhiệm chức vụ này.
- Liệu ông có thêu dệt thêm để có lợi cho ông không đấy? - Angélique nói - Tố cáo Đức vua và Bộ trưởng của Ngài là một việc hết sức nghiêm trọng. Tại sao ông không đi Versailles mà thưa kiện?
- Tôi không có phương tiện, vả lại làm sao mà tôi dám chắc mình vẫn sống sót về đến đây mà không bị lôi thôi với bọn Thổ? Nếu bà cho tôi là cường điệu thì tôi xin nói cho bà biết rằng một quan chức cao cấp hơn tôi nhiều, đại sứ nước ta tại Thổ Nhĩ Kỳ, Hầu tước La Haye đang bị tù ở Constantinople do vỡ nợ chỉ vì ngài Bộ trưởng không trả lương cho ông ta bao nhiêu năm liền. Bà xem, tôi phải có cách tự cứu thân. Còn vợ, còn con tôi nữa chứ, lạy Chúa.
Y thở dài
- Dẫu sao tôi cũng sẽ cố gắng giúp bà, miễn là đừng có dây vào ông chủ của bà, Hầu tước d’ Escrainville. Bà cần tôi giúp việc gì nào?
- Hai việc - Savary nói - Thứ nhất là tìm trong thành phố này mà chắc ông biết rất rõ, một thương nhân người A rập tên là Ali Mektub. Ông này có người cháu trai tên là Mohamed Raki. Rồi hỏi y xem y có muốn làm vừa lòng vị Tiên tri và có mặt tại khu cảng Candia vào lúc chiếc tàu cướp biển Pháp đưa bọn nô lệ ra khỏi tàu để đem bán đấu giá không.
- Chắc chắn là tôi có thể làm việc đó - Rochat nói, nhẹ nhõm cả người - Hình như tôi có biết chỗ ở của người thương nhân ấy.
Nhưng còn phần thứ hai của kế hoạch thì khó khăn hơn đối với y, cụ thể là phải đưa ngay cho Savary mấy đồng sequin y mang theo trong túi. Cuối cùng y cũng đồng ý nhưng vẫn thấy sốt ruột.
- Ấy là vì ông đảm bảo với tôi rằng bốn chục sequin này sẽ mang lại cho tôi một trăm livre… Thế còn cái khoản tiền bán bọt biển của tôi tại Marseille thì thế nào? d’ Escrainville cũng có hứa sẽ mang về cho tôi một hòm rượu Banyuls. Đâu rồi?
Angélique và Savary chẳng hề biết gì cả.
- Thôi không cần! Tôi không có thì giờ đợi ông chủ về. Khi nào bà gặp ông ta nhớ bảo là ông bạn Rochat có đến đây đòi ông ta phải trả tiền bọt biển và thùng rượu ông ta hứa. Mà thôi, đừng nói gì cả, tốt hơn là đừng cho hắn biết chúng ta có nói chuyện với nhau. Càng đỡ rắc rối.
- Ở phương Đông tay phải không bao giờ cho tay trái biết mình đang làm gì. - Savary long trọng nói.
- Đúng! Ông ta cũng không bao giờ được nghi ngờ là tôi đã cho các vị vay tiền. Phiền toái thật! Chả biết làm phúc rồi có phải tội không đây! Tự dưng lại vơ vào thân cái chuyện không đâu này. Thôi biết làm sao được.
Y vội vã ra đi không kịp uống hết cốc rượu, cứ bực mình mãi về chuyện do thiếu thận trọng nên đã lâm vào tình cảnh này.
Tối hôm đó khi nô lệ được đưa xuống, một người A rập mặc áo choàng không tay trùm đầu đang đợi cạnh cầu tàu. Lúc ấy Angélique vừa đặt chân xuống bến dưới cặp mắt theo dõi của Coriano. Savary đã dàn xếp để hai người được thoải mái đôi chút. Thình lình lão dúi vào tay Coriano một túi tiền.
- Lão moi đâu ra số tiền kia thế, con cóc già? - Tên cướp gầm lên.
- Ông cũng chẳng giàu có hơn nếu ông biết… hoặc mách thuyền trưởng của ông - Dược sư thì thầm - cho phép tôi gặp riêng tên A rập kia dăm phút, rồi tôi sẽ biếu ông thêm.
- Thế lão định bàn mưu với hắn để trốn có phải không?
- Cứ cho là thế thì đã làm sao nào? Ông cho rằng sẽ bán được cái thân này với cái giá cao hơn ba chục sequin mà tôi biếu ông chắc?
Coriano tung mấy đồng tiền trong tay, ngần ngừ giây lát, đắn đo cân nhắc, rồi y quay mặt đi, hoàn toàn tập trung vào việc phân loại hàng hóa: ông già và trẻ con dồn về một góc; thanh niên trai tráng về một góc; đàn bà con gái xinh đẹp về một góc v.v… Savary tức tốc chạy đến chỗ người A rập. Sau đó một lát, lão trở lại và lò dò đến cạnh Angélique.
- Dĩ nhiên là Ali Mektub rồi. Y cũng có một người cháu trai tên là Mohamed Raki hiện sống ở Algiers. Song Ali Mektub nói rằng y nhớ là cháu y có đi Marseille theo một người da trắng. Trước kia Mohamed Raki đã từng làm rất lâu cho người này ở Sudan, đó là một người thông thái đang khai thác vàng.
- Người da trắng ấy nom thế nào? Y có tả được hình dáng không?
- Xin bà đừng sốt ruột. Tôi làm sao có thể hỏi y cả ngàn điều một lúc được. Nhưng tối nay hay ngày mai tôi sẽ gặp y lâu hơn.
- Cụ định liệu như thế nào?
- Đó là việc của tôi. Bà cứ tin tôi.
Coriano đến, tách hai người ra. Angélique có lính canh đi kèm được đưa đến khu người Pháp trong thành phố. Màn đêm buông xuống, từ các quán mở toang cửa dọc theo đường phố vẳng lại tiếng trống con và tiếng sáo.
Ngôi nhà họ đi vào nom giống một pháo đài nhỏ, d’ Escrainville đang ở đó, chung quanh hắn toàn bàn ghế đẹp và chân dung đóng khung vàng bên cạnh những sập gụ và những chiếc ống điếu rất phổ biến.
Mọi thứ đều hấp mùi thuốc phiện.
Hắn mời Angélique dùng cà phê với hắn, điều hắn chưa hề làm kể từ buổi chiều đáng ghi nhớ trên đảo giữa các nữ thần cẩm thạch.
- Người đẹp của ta ơi, chúng ta đang cập bến, mấy hôm nữa tất cả những ai ngưỡng mộ các cô gái đẹp tự nguyện bỏ ra một số tiền lớn để mua lấy một vật hiếm sẽ có dịp kiểm tra đến tận chân tơ kẽ tóc thân hình của nàng. Ta sẽ để cho họ thoải mái lựa chọn, chắc chắn là như vậy.
- Ông quả là một người thô lỗ - Angélique nói - Nhưng tôi nghĩ rằng ông sẽ không có gan mang tôi ra bán... mà lại còn khỏa thân nữa.
Tên cướp biển cười phá lên.
- Càng phô bày bà tôi càng có thêm cơ may kiếm được số tiền mười hai ngàn mà tôi đang cần.
Angélique nhảy chồm lên, mắt long sòng sọc.
- Sẽ không bao giờ có chuyện đó - Nàng hét lên - Tôi chẳng bao giờ chịu nhục như thế. Tôi không phải là một con nô lệ. Tôi là một đại mệnh phụ của nước Pháp. Không, không bao giờ tôi chịu. Cứ thử đối xử với tôi như thế đi, tôi sẽ bắt các người phải hối hận gấp trăm lần trí tưởng tượng của các người.
- Đồ con ** hỗn láo - Hắn gầm lên, chộp lấy cái roi.
Tên phụ tá chột mắt can thi
- Cứ để nó yên đấy, thuyền trưởng ạ. Ông sẽ làm nó bị thương đấy. Chẳng cần nhọc công đánh nó thâm tím mặt mày làm gì. Cứ cho nó vào hầm một lát là nó bớt hung hăng ngay mà.
Hầu tước d’ Escrainville không thể nào nghe theo lẽ phải, nhưng tên phụ tá thận trọng đẩy hắn sang một bên. Hắn đành đến nằm dài trên đi văng để tuột chiếc roi xuống sàn nhà.
Coriano nắm lấy cánh tay Angélique nhưng nàng giật ra, bảo rằng nàng có thể tự đi được. Y nhún vai và dẫn nàng qua các lối ngoằn ngoèo của ngôi nhà cũ, nửa là pháo đài nửa là quán trọ. Sau khi đẩy nàng xuống mấy bậc thang bằng đá, y dừng lại trước một cửa ra vào có thanh sắt to chắn ngang. Y rút chùm chìa khóa lấy ra một chiếc tra vào ổ và xoay mạnh.
- Chui vào trong kia!
Angélique ngập ngừng trên bậu cửa của cái hang tăm tối. Y đẩy nàng vào và khóa cửa lại.
Bây giờ nàng ở một mình trong căn hầm tranh tối tranh sáng. Chỉ có một cửa sổ nhỏ có chấn song sát trần. Chẳng có tí rơm rạ để nằm. Đồ đạc duy nhất là ba sợi xích nặng có cùm sắt gắn vào tường. Ít ra tên cục súc kia cũng không xích nàng vào đấy.
“Chắc là chúng không dám gây thương tích cho ta” nàng nhủ thầm.
Chỗ vai bị roi quất đau nhói. Nàng ngồi phịch xuống đất. Tứ bề lặng im như một nấm mồ. Ít ra ở đây nàng cũng được yên ổn. Mặc dù không thoải mái lắm nhưng cũng chẳng bị quấy rầy. Nàng nhận ra rằng sở dĩ tâm hồn nàng được thư thái là vì nàng vừa nhận những tin mới nhất về người lái buôn Arập Ali Mektub.
Angélique cứ nhẩm đi nhẩm lại những lời Savary nói để khỏi rơi vào tuyệt vọng. Nàng không thể nhầm được. Nàng đã hành động đúng khi quyết định đến Crète mặc dù đã phải trải qua bao nỗi gian truân cùng cực. Sợi chỉ mỏng manh chưa bị đứt, và hi vọng vẫn lóe lên ở cuối đoạn đường. Bây giờ nàng không phải tự lừa dối mình nữa. Suốt một thời gian dài trong công cuộc tìm kiếm của nàng chẳng thấy có gì rõ ràng dứt khoát. Lúc nào và ở đâu nàng sẽ có thể gặp người cháu trai của Ali Mekbub? Thậm chí nàng sẽ lại được tự do hay là cái hậu cung định mệnh khủng khiếp đang chờ đợi nàng?
Hẳn là nàng đã ngủ thiếp đi và ngủ thật ngon vì khi tỉnh giấc nàng thấy ngay cạnh nàng một chiếc mâm đồng. Trên mâm có cà phê Thổ ngan ngát hương thơm, một ít hạt Pistachio và vài cái bánh mật ong.
Nàng ăn sắp xong thì nghe có tiếng người vọng lên từ hành lang phía dưới. Có tiếng chân người đến gần. Chìa khóa lại rin rít trong ổ khóa. Và rồi tên chột mắt ẩy hai người đàn bà khác, một che mạng. Cả hai tuôn vào mặt tên cướp những lời nguyền rủa dữ tợn bằng tiếng Thổ. Tên quản ngục cũng chửi lại bằng thứ tiếng ấy. Sau khi khóa cửa y bỏ đi mồm vẫn làu bàu.
Hai người đàn bà lui vào góc hầm và giương cặp mắt hãi hùng nhìn chằm chằm Angélique. Mãi một lúc sau họ mới nhận ra nàng cũng là đàn bà. Thế là họ phá lên cười như điên như dại.
Lúc này Angélique đã quen với ánh sáng lờ mờ và thấy rõ người đàn bà đeo mạng mặc một cái quần Thổ, áo sơ mi lụa đen và một chiếc áo chẽn hở ngực bằng nhung. Chiếc mũ nhung đỏ chụp lên bộ tóc đen dày, chiếc mạng thưa che kín mặt chị ta. Thấy trước mặt mình chỉ có một người đàn bà thôi, chị tháo mạng che và để lộ hai hàng lông mi dài hơi xanh, trên đôi mắt giống mắt hươu. Nếu cái mũi không quá to thì hẳn chị rất đẹp. Cổ chị đeo chiếc dây chuyền vàng treo thánh giá. Chị cầm thánh giá hôn mãi rồi làm dấu thánh.
Nhìn thấy phản ứng của Angélique trước cử chỉ trên, chị đến ngồi cạnh và trò chuyện bằng tiếng Pháp, không lưu loát lắm nhưng rất đúng văn phạm, khiến Angélique rất sửng sốt. Chị là người Arménie quê ở Tiflis trên dãy núi Caucasus, và do đó chị theo dòng chính thống. Nhưng chị học tiếng Pháp do một cha cố dòng chúa Cứu thế dạy. Chị giới thiệu với Angélique người bạn đồng cảnh ngộ, một người Nga bị bọn Thổ bắt ở Kiev.
Angélique hỏi chị bị rơi vào tay d’ Escrainville như thế nào, nhưng chị hầu như không giải thích được vì chị mới vừa từ Beirut đến, sau khi rời Erzerum qua Constantinople. Cả hai đều cho là mình may mắn được đến Crète vì họ biết rằng lần này họ sẽ không bị đối xử như súc vật và bị lột truồng ra bày bán tại các nơi công cộng, mà sẽ được chào mời trong những nơi kín đáo dành riêng cho các tài sản có
Trong khi nói huyên thuyên, Angélique nhìn chị ái ngại. Người phụ nữ có tên là Tehemitchian hẳn đã phải đi suốt bao tháng ròng rã, bị bày trần truồng trong các chợ của vùng Levant. Thế nhưng chẳng ai cướp của chị những xuyến vàng nặng trên cổ tay cổ chân. Cả cái thắt lưng bằng đồng sequin vàng cũng còn nguyên. Thực vậy, trên người chị có tới hàng chục livre vàng đủ để chuộc lại tự do cho chị.
Người đàn bà Arménie bỗng cười phá lên. Vấn đề không phải là tiền bạc mà là tìm được một người bảo trợ có quyền thế. Chị chắc rằng mình sẽ tìm được dễ dàng một người như thế tại đây, một nước vừa mới thuộc những người theo đạo thiên chúa, và vẫn còn là một cảng bốc hàng cho các tàu cướp biển u châu, và cũng là nơi dỡ hàng cho những con tàu đến buôn bán với người phương Tây. Chị đã nhìn thấy các linh mục đạo Chính thống ở ngoài đường và chị đã nuôi hi vọng.
Người đàn bà Nga kín đáo hơn nhiều - chị có vẻ dửng dưng với số phận, nhưng lại chiếm phần lớn chỗ trong hầm, duỗi thẳng hai chân ra nằm ngủ.
Chị ấy chẳng phải là đối thủ - người đàn bà Arménie vừa nói vừa nháy mắt ranh mãnh - chị ấy xinh thật, nhưng bà có thể dễ dàng nhận thấy chị ấy thiếu một cái gì đó thật sự hấp dẫn. Ngược lại tôi hi vọng rằng sự có mặt của bà sẽ không cản trở việc tôi kiếm được một ông chủ tốt.
- Có bao giờ chị nghĩ đến chuyện chạy trốn không? - Angélique hỏi.
- Chạy trốn? Tôi ấy à? Thế tôi sẽ đi đâu? Về quê tôi ở Caucasus thì xa lắm và phải đi thuyền suốt vùng đất Thổ. Họ chẳng phải đã chiếm đảo Crète rồi đấy sao? Vả lại gia đình tôi cũng chẳng còn ai. Bọn Thổ chiếm nhà rồi, chúng giết bố tôi và các anh tôi, còn mấy em trai tôi thì chúng thiến ngay trước mắt tôi để bán đi làm hoạn quan cho các pasha của Kars. Không đâu, tốt nhất là kiếm được một ông chủ thật quyền thế.
Rồi với một giọng rất trang trọng chị ta hỏi Angélique có phải nàng từ các chợ nô lệ miền Nam Malte đến không?
- Sao? Chị cho là được bọn tu sĩ ở Malte hãm hiếp là vinh dự saoAngélique hỏi, giọng khá mỉa mai.
- Họ là những lãnh chúa hùng mạnh nhất ở vùng Levant - chị ta tròn xoe mắt đáp - Ngay cả bọn Thổ cũng phải sợ và kính nể, vì công việc của các Hiệp sĩ Malte phát triển đến khắp mọi nơi ở Địa Trung Hải và họ giàu có vô cùng. Bà không biết là các gian hàng bán đấu giá ở Candia này là của họ sao? Nghe nói một trong những gale của họ đang ở ngoài bến và tên chủ nô ở Malte sẽ có mặt tại buổi đấu giá chúng ta. Ấy, tôi quên bà là người Pháp và ở Pháp chắc cũng có chợ nô lệ. Người ta bảo nước Pháp là một cường quốc, nó có to bằng Malte không?