Angélique cãi lại. Không, nước Pháp không có chợ nô lệ và lớn gấp mười lần Malte.
Người đàn bà Arménie cười phá lên. Sao phụ nữ Pháp lại bịa chuyện còn hoang đường hơn cả chuyện thần thoại Ả rập thế? Ai mà chẳng biết Malte là quốc gia Công giáo lớn nhất.
Angélique chẳng buồn giải thích. Nàng nói rằng cái triển vọng được mang ra bán ở Batistan của các Hiệp sĩ xứ Malte chẳng bù đắp được việc đánh mất tự do của nàng, và hi vọng sẽ chóng tìm được cách thoát thân.
Người đàn bà Arménie nhún vai. Chị không tin là có thể trốn khỏi nanh vuốt của một chủ nô mạnh như “tên cướp biển người Pháp”. Chị đã từng rơi vào tay bọn Thổ gần một năm và chẳng hề nghe nói có người phụ nữ nào trốn được. Tài giỏi mấy rồi cũng bị giết chết hoặc vứt cho chó, mèo ăn thịt.
- Mèo à? - Angélique thốt lên
- Một số bộ tộc Hồi giáo luyện mèo để giữ tù. Mèo còn dữ và nhanh hơn chó nhiều.
- Tôi cứ nghĩ việc canh giữ đàn bà là của bọn hoạn quan.
Chị ta kể rằng bọn hoạn quan chỉ canh giữ những ai may mắn được vào hậu cung thôi. Nô lệ thường thì phó mặc cho mèo và chó canh giữ, ai chống lại thì đôi khi bị ném cho chúng ăn tươi nuốt sống. Những con vật tai ác này trước tiên móc mắt nạn nhân sau đó gặm vú.
Angélique rùng mình. Nàng chết, nhưng nếu mà chết kiểu đó thì…
Chỗ thức ăn thừa của Angélique chẳng mấy chốc đã hết nhẵn sau khi được chia làm ba, nhất là người đàn bà Nga lại chén phần lớn nhất. Ba người bỗng thấy khát kinh khủng. Mặc họ kêu gào đặc biệt là người đàn bà Arménie kêu to nhất - chẳng ai tới cả. Nhưng đêm đến trời mát hơn, cơn khát của họ cũng dịu đi phần nào, song đến tảng sáng lại nổi lên dữ dội. Vẫn chẳng có ai tới.
Những luồng gió nóng lùa vào qua khe hở ở nóc hầm. Chẳng mấy chốc họ lại thấy đói. Vẫn không có ai đến. Ánh sáng bên ngoài từ màu hồng chuyển sang màu tía rồi mờ dần. Lại một đêm nữa, tệ hơn đêm trước, Angélique thấy đau rát ở lưng, chỗ ngọn roi của tên cướp quật rách da và áo nàng dính bết vào da thịt. Nhưng đến sáng họ ngửi thấy một mùi thơm gần đâu đấy và tỉnh giấc.
- Nó thơm như món thịt nướng chính hiệu ở vùng Caucasus vậy - Chị ta nói, mũi hít hít.
Rồi họ mừng rơn khi nghe tiếng bát đĩa loảng xoảng ngoài hành lang.
- Đặt xuống đây - Giọng d’ Escrainville vang lên
Vừa lúc ấy ổ khóa quay và một tia nắng lọt vào gian hầm.
- Nhịn đói một tí và được các cô bạn cùng phòng kể khối chuyện về số phận của mình rồi chứ, chắc người đẹp của tôi đã khôn ra một chút rồi chứ? Đã quyết định từ nay sẽ xử sự ngoan ngoãn hơn chưa? Cúi đầu xuống mà thưa thế này này: “Dạ, thưa ông chủ, con sẽ làm tất cả những gì ông muốn…”
Rõ ràng tên cướp bị tác động của rượu và thuốc phiện. Râu hắn cạo nham nhở, không thấy Angélique trả lời, tên cướp chửi thề và báo tin cho nàng biết là hắn đã hết kiên nhẫn rồi.
- Trước khi đưa ra đấu giá, ta phải sỉ nhục con ranh con này mới được. Nếu không nó sẽ làm hỏng hết. Cúi đầu xuống và nhắc lại đi: “Dạ thưa ông chủ…”
Angélique nghiến chặt hai hàm răng, tên cướp giận dữ nhổ đánh toẹt một cái. Một lần nữa hắn gi nhưng lại một lần nữa tên chột mắt ngăn hắn. Cố giữ bình tĩnh tên cướp dịu giọng nói:
- Lý do duy nhất tại sao tao không lột da mày vì tao không muốn mày mất giá - hắn quay lại phía cái thủy thủ đang bưng các đĩa thức ăn:
- Đưa bọn tù kia vào gian hầm bên cạnh cho ăn uống, còn con lừa cứng đầu này thì miễn.
Angélique hết sức ngạc nhiên khi thấy chị người Arménie và cô bạn Nga háu ăn kia từ chối không ăn trong khi nàng phải nhịn. Tù nhân phải liên kết với nhau, đó là một quy ước ngầm.
Tên đao phủ nguyền rủa tất cả đàn bà trên thế gian này, thề sẽ diệt sạch không còn một mống và hò hét ầm ĩ ra lệnh mang các đĩa thức ăn về. Ngày kéo dài lê thê và đêm đến cả ba lại thấy đói. Angélique không ngủ được. Nhưng nàng phải chịu đựng thêm một ngày khốn khổ nữa trước khi bán đấu giá, trong đó ba người chắc chắn sẽ thu hút được nhiều chú ý nhất của khách hàng. Đành rằng Savary có hứa sẽ giúp nàng thoát khỏi tình cảnh tuyệt vọng này nhưng liệu có chút hi vọng gì không? Làm sao một lão già cha căng chú kiết chẳng có lấy một xu mà bản thân cũng bị cầm tù, chỉ được vài mống người Hi Lạp dốt nát giúp đỡ lại có thể đương đầu với những tên cướp biển khét tiếng đang tìm cách bán đi những món hàng giúp chúng duy trì cuộc sống?
Vào lúc nửa đêm, nàng bỗng thấy hai con mắt ánh lên trong bóng tối - “Mèo” - nàng hét lên. Nhưng đó chỉ là ngọn đèn hai bấc.
Đêm như kéo dài vô tận. Nàng cũng rất thèm ngủ nhưng quyết định cố thức, vì biết đâu Savary sẽ đến. Gần sáng nàng nghe biển gầm lên như trong cơn bão. Nàng thu mình dưới cửa sổ và ngủ thiếp đi.
- Plessis phu nhân, bà viết một bức thư nhé?
Angélique giật mình thức dậy. Nàng khó khăn lắm mới nhận ra lão dược sư đang cố tuồn một tờ giấy cùng với bút mực qua chấn song cửa sổ..
- Làm sao viết được? Chẳng có bàn viết.
- Chẳng cần. Kê vào tường hay trải giấy xuống sà
Angélique kê tờ giấy lên mặt đá gồ ghề
- Viết cho ai thế này? - Nàng hỏi, dần tỉnh lại.
- Chồng bà!
- Chồng tôi à?
- Vâng, tôi đã gặp Ali Mektub. Anh ta quyết định đi Algiers tìm lại người cháu để hỏi. Cũng có khả năng người cháu sẽ đưa thẳng anh ta đến chỗ chồng bà. Nếu được thế thì anh ta nên có một lá thư tự tay bà viết để làm bằng.
Bàn tay Angélique run lên trên tờ giấy nhàu nát. Viết thư cho chồng nàng! Chàng không còn là một bóng ma nữa, mà là con người bằng xương bằng thịt. Ý nghĩ rằng chàng có thể sờ vào bức thư chính tay nàng vừa mới viết, rằng mắt chàng có thể đọc được những dòng chữ đối với nàng quá ngông cuồng. Nhưng nàng vẫn tin vào sự hồi sinh của thể xác cơ mà?
- Tôi viết gì đây cụ Savary? Tôi không biết viết gì… viết thế nào?
- Viết gì cũng được, miễn là ông ấy nhận ra mặt chữ của bà.
Angélique viết liên tục, chọc thủng tờ giấy trong cơn bối rối: “Hãy nhớ đến em, người đã từng là vợ của anh. Em mãi mãi yêu anh - Angélique”.
- Tôi có cần nói về cảnh khốn cùng của tôi không? Có cần cho ông ấy biết tôi đang ở đâu không?
- Ali Mektub sẽ bảo cho ông ấy biết.
- Cụ có tin là anh ta sẽ tìm thấy chồng tôi không?
- Anh ta sẽ làm hết sức mình, trong bất cứ trường hợp nào.
- Cụ nói thế nào mà anh ta bằng lòng giúp đỡ những kẻ nô lệ xác xơ như chúng ta vậy?
- Các tín đồ Hồi giáo không phải lúc nào cũng chạy theo những phần thưởng vật chất - Savary đáp - rất nhiều khả năng họ lao vào một thứ đặc ứng riêng của họ và khi thần linh khiến họ làm như thế thì chẳng có gì ngăn được họ. Ali Mektub coi bà và câu chuyện về chồng bà như là dấu hiệu của Thánh Allah - Thánh có nhiều kế hoạch bí mật cho ông bà, và biệt đãi ông bà. Công cuộc tìm kiếm của bà là một điều thánh thiện. Và anh ta nghĩ rằng có thể Thánh Allah sẽ trừng phạt anh ta nếu anh ta không đi. Anh ta tiến hành chuyến hành hương này với cả một tấm lòng thành như đang đi Mecca vậy. Mọi phí tồn anh ta đều chịu hết. Anh ta đã cho tôi vay cái số một trăm livre mà tôi đã hứa cho Rochat. Tôi biết anh ta sẽ giữ lời.
- Có thể đây là dấu hiệu của Chúa đang rủ lòng thương đến tôi. Nhưng chuyến viễn dương này sẽ lâu đấy. Việc gì sẽ xảy đến với tôi từ nay đến lúc đó? Cụ biết không, chúng nó bảo là sẽ mang bán tôi trong vòng hai hôm nữa.
- Tôi có biết - Savary lo lắng nói - Nhưng đừng thất vọng. Có thể tôi sẽ kịp giúp bà trốn thoát. Nếu bà lần lữa thêm được ít ngày trước khi chúng mang bà ra bán đấu giá thì sẽ thuận lợi hơn cho tôi.
- Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện đó. Các bạn tù của tôi nói rằng đôi khi người tù vẫn cắt xẻo một vài bộ phận trên cơ thể hay làm dị dạng mình để khỏi bị mang đi bán, nhưng tôi không đủ can đảm làm chuyện đó. Song tôi nghĩ nếu tôi gọt trọc đầu tôi sẽ làm cho kế hoạch của bọn quản ngục thất bại, chúng nó đặt hi vọng vào mái tóc vàng của tôi vì người phương Đông thích phụ nữ tóc vàng. Không có tóc tôi chẳng được giá cao. Chúng nó chắc chắn không dám bán tôi trong tình trạng như thế và chỉ còn có một cách là chờ cho tóc tôi mọc lại. Như thế ta có thể có thêm chút thời gian.
- Ý kiến hay đấy, nhưng tôi rất ngại cái tính khí điên khùng của tên d’Escrainville
- Cụ đừng lo cho tôi. Tôi cũng đang quen dần, giờ đây tôi chỉ cần một cái kéo.
- Tôi sẽ cố gắng tuồn vào cho bà. Tôi không biết có trở lại đây được không vì bọn chúng theo dõi sát lắm. Nhưng tôi sẽ tìm người làm hộ. Hãy can đảm lên, in sha Allah (lạy thánh Ala
Ngày thứ ba trong ngục bắt đầu. Angélique chờ đợi bọn cướp sẽ đối xử tàn bạo hơn - Đầu nàng lâng lâng, hai chân rất yếu và nàng có cảm giác là mình bị sốt. Nghe tiếng chân ngoài hành lang nàng run lên bần bật.
Coriano đến và bảo nàng ra khỏi hầm. Rồi không nói một lời, y dẫn nàng đến phòng khách nơi Hầu tước d’ Escrainville đang đi đi lại lại, nét mặt hầm hầm.
Thấy Angélique hắn ném cho nàng một cái nhìn hung ác rồi rút trong túi ra một cái kéo.
- Chúng tôi tìm thấy cái này trong tay một thằng bé Hi Lạp. Nó định tuồn kéo vào phòng giam của bà qua lỗ thông gió. Có phải ai đó định gửi cho bà không? Bà mưu tính chuyện gì với cái kéo này?
Angélique ngoảnh mặt đi vẻ khinh khỉnh, không đáp. Thế là hỏng bét.
- Chắc bà có kế hoạch gì trong đầu - Coriano nói - Ông xem họ nghĩ ra bao nhiêu trò hòng tìm cách chạy trốn. Ông có nhớ cô gái người Sicile uống axít không? Và cả cái cô nhảy từ trên gác xuống? Thật là phí hoài.
- Thôi đừng nhắc lại những chuyện ấy nữa! - Tên cướp gắt.
Hắn đi qua đi lại trong phòng. Bỗng hắn túm tóc Angélique và hất ngược nàng về phía mình.
- Mày quyết không cho tao bán mày à? Mày quyết trốn phải không? Mày định hét lên chăng? Hay la làng? Hay xé quần xé áo? Có cần tao cho một chục gã đàn ông đến lột truồng mày không?
Hắn buông tay ra và tiếp tục đi đi lại lại.
- Ở đây tao nhìn thấy tất cả. Thật chẳng ra cái thể thống gì! Các Hiệp sĩ xứ Malte chủ nhân của Batistan không thích thế đâu. Mà đàn bà con gái tốt nết chẳng ai làm thế bao giờ.
- Cho nó uống thuốc ngủ cho xong - Coriano nó
- Ông biết thừa là làm như thế không ổn đâu. Uống thuốc ngủ vào mặt mày chúng nom như lũ chết trôi ấy. Mà tôi thì cần có mười hai ngàn đồng! - Hắn dừng lại trước mặt Angélique.
- Nếu mày ngoan ngoãn thì chắc chắn tao kiếm được số tiền trên. Còn không thì rõ ràng mày lừa chúng ta. Này Coriano, tôi hứa sẽ thưởng cho kẻ nào chịu rước quách cái con mụ đàn bà mất dạy này cho rảnh nợ.
Tên phụ tá lầu bầu:
- Ta phải thuần hóa nó thôi.
- Bằng cách nào đây, hết cách rồi.
- Vẫn còn đấy - mắt Coriano sáng lên - Ta chưa nhốt nó vào hầm pháo đài. Cho nó biết thân, nếu cứ định chơi khăm chúng ta. Một nét tai quái hiện trên cái mồm móm mém của y. d’ Escrainville cũng ma mãnh đáp lại.
- Hay đấy Coriano! Cứ thử xem! - hắn xáp lại bên Angélique. Mày có muốn biết chúng tao định cho mày chết kiểu gì nếu mày giở trò phá bĩnh không? Mày có muốn biết chúng tao sẽ kết liễu đời mày như thế nào nếu mày không chịu kiếm cho chúng tao mười hai ngàn không? - Hắn lại túm lấy tóc nàng, kề mặt hắn sát mặt nàng khiến nàng ngạt thở vì mùi thuốc phiện.
- Mày sẽ chết! Đừng có hòng chờ tao thương hại. Tao mà không kiếm được mười hai ngàn đó thì mày phải chết. Sao, mày có muốn biết sẽ chết như thế nào không?
Chúng lại nhốt nàng vào một gian hầm khác. Gian hầm này cũng tối và ẩm ướt như gian hầm kia, ngoài ra chẳng có gì khác. Nàng đứng một lúc rồi ngồi xuống một súc gỗ ở góc hầm. Nàng không muốn để lộ cho d’ Escrainville thấy nỗi kinh hoàng của mình, nhưng nàng không khỏi khiếp sợ. Khi hắn từ từ đóng cửa lại, suýt nữa nàng quỳ sụp dưới chân hắn xin hắn tha tội, hứa sẽ làm tất cả những gì hắn muốn nhưng một chút kiêu hãnh cuối cùng đã ghìm giữ nàng lại.
- Tôi sợ lắm - nàng hét lên - Lạy chúa, tôi sợ quá!
giống như một ngôi mộ. Nàng đưa hai tay lên che mặt, chờ đợi. Bỗng nàng nghe vật gì rơi đánh phịch xuống một cái, rất gần chỗ nàng. Rồi lại im lặng.
Nhưng không phải chỉ có một mình nàng trong căn hầm. Nàng cảm thấy như có ai đang nhìn nàng trừng trừng. Nàng từ từ xòe tay ra và thét lên kinh hãi. Một con mèo to lớn đứng giữa căn hầm, hai cặp mắt lấp lánh trong ánh sáng lờ mờ. Angélique lạnh cứng cả người.
Rồi một con mèo khác xuất hiện ở song cửa thông gió và nhảy vào hầm. Lại một con thứ ba thứ tư thứ năm cho đến khi quanh nàng toàn những con vật bò lổm ngổm. Trong bóng tối nàng chỉ nhìn thấy mắt của chúng. Một con ngồi xổm sắp sửa nhảy bổ vào người nàng, chắc chắn nhằm vào đôi mắt nàng. Nàng lấy chân hất nó ra, con vật đáp lại bằng một tiếng meo ghê rợn và những con khác đồng thanh rít lên những tiếng rít ghê người.
Angélique đứng bật dậy, cố chạy ra phía cửa. Nàng bỗng cảm thấy một vật nặng trên vai những móng vuốt nhọn đang cấu vào da thịt nàng trong khi những con khác cào xé quần áo nàng.
Đưa hai cánh tay che mắt, nàng rú lên như một người điên.
- Không, đừng thế! Đừng thế, cứu tôi với! Cứu tôi với!
Cánh cửa mở toang, Coriano bước vào, quất lia lịa và đá tứ tung đuổi bầy mèo đi mồm không ngớt chửi rủa. Bản thân y cũng thấy khó mà xua chúng vì con nào con nấy đều đói ăn. Y lôi Angélique ra ngoài. Nàng như điên dại, lăn lộn gào rú trên sàn nhà.
d’ Escrainville chăm chú nhìn nàng phủ phục dưới đất, bị đánh gục hoàn toàn. Thế là cuối cùng ý chí nàng cũng bị khuất phục giống như bất kỳ người đàn bà nào khác.
Tên cướp ngoác miệng cười. Đây là chiến thắng huy hoàng nhất của hắn và cũng là chiến thắng cay đắng nhất. Bỗng dưng hắn òa lên khóc vì xót xa. Hắn vội nghiến răng để không bật ra tiếng khóc.
- Đã biết thân chưa? Giờ thì còn bướng nữa không?
Nàng tấm tức nhắc lại:
- Đừng, đừng thả mèo! Đừng thả mèo!
Hắn nâng cằm nàng lên:
- Ngoan rồi chứ? Có ngoan ngoãn đi đến Batistan không?
- Có, có.
- Chịu cởi truồng cho người ta xem không?
- Có... có… gì cũng được... nhưng đừng thả mèo ra!
Hai tên cướp biển nhìn nàng.
- Ta thắng rồi thuyền trưởng ạ - Coriano nói - Y cúi xuống bên Angélique đang quằn quại nức nở trên sàn. Y trỏ chỗ vai nàng bị mèo cào:
- Nghe tiếng kêu cứu tôi vào ngay thế mà lũ mèo vẫn đủ thì giờ cấu xé nó. Tên chủ Batistan và tên phụ trách bán đấu giá Erivan thế nào cũng đòi bớt đây.
Hầu tước d’ Escrainville lau mồ hôi trên trán:
- Như thế vẫn chưa đến nỗi gì. Cũng may mà chúng chưa móc mắt nó.
- Đúng thế, lạy thánh mẫu, nó là đứa đàn bà bướng nhất thế gian này. Chừng nào tôi còn sống còn lênh đênh trên sông nước, tôi sẽ còn nhớ mãi cô gái Pháp có đôi mắt xanh này.
Sau cái cảnh khủng khiếp ấy, Angélique đành ráng chịu mọi hình phạt chẳng dám đắn đo suy tính hay cưỡng lại số mệnh. Hai cô bạn tù của nàng đưa mắt nhìn nhau ranh mãnh khi trông thấy nàng, một con người trước đây kiêu kì là thế, nay lại nằm ủ rũ suốt mấy giờ liền, mắt nhìn đăm đăm phía trước. Đúng là tên tướng cướp luôn có cách trị những ai nổi loạn. Một kẻ lõi đời. Thậm chí hắn có thể buộc nổi một người đàn bà kiêu hãnh phải khuất phục trước ý chí của hắn.
Hô một trong hai tên gác người Marốc trên tàu Hermes bước vào cùng với hai người da đen béo tốt. Thoạt tiên Angélique tưởng họ là đàn ông, vì họ mặc quần áo nam giới, đầu đội khăn xếp rất to và lưng đeo mã tấu, nhìn kỹ nàng mới nhận ra họ là hai người đàn bà đứng tuổi, vì bộ ngực teo tóp lủng lẳng dưới lần áo bolero và mặt họ nhẵn nhụi không một sợi râu. Mụ lớn tuổi hơn đứng ngay trước mặt Angélique nói bằng một giọng the thé: “Hammam”.
Angélique quay sang phía người đàn bà Arménie. “Hammam có phải tiếng Ba tư nghĩa là tắm không?”
- Đúng đấy! - Mụ già đáp bằng tiếng Thổ - Rồi mụ trỏ móng tay sơn màu da cam về phía người đàn bà Nga “Bania”. Rồi trỏ vào mình “Hammamehi!”
- Có nghĩa là mụ ta trông coi việc tắm rửa - Người đàn bà Arménie nói.
Chị ta giải thích rằng hai hoạn quan này sẽ đưa ba người đến phòng tắm Thổ để sửa sang lại đầu tóc. Chị ta ngồi dậy quên hết ưu phiền, và chuyện trò vui vẻ với hai con người xấu xí kia. Cả chị ta và người đàn bà Nga đều rất phấn khởi.
- Chúng nó bảo rằng chúng ta có thể tha hồ lựa chọn quần áo đắt tiền nhất ở các cửa hiệu và cả đồ trang sức nữa. Nhưng trước tiên phải che mạng. Tên hoạn quan cho rằng bà mặc áo quần đàn ông như thế không được trang nhã cho lắm. Hắn nói hắn lấy làm xấu hổ vì bà.
Chúng đưa ba người tù trở vào nhà để dùng nước cam và chanh. Angélique rùng mình khi tên quan hoạn có móng tay màu da cam vén tóc nàng để xem lưng. Trong khi họ đang trang điểm thì Hầu tước d’ Escrainville đến. Tên hoạn quan nói gì đó với hắn bằng tiếng Thổ, giọng bực bội.
Người đàn bà Arménie thì thầm:
- Hắn bảo d’ Escrainville có điên mới xử phạt bà đúng vào lúc sắp bán đấu giá. Hắn không đảm bảo có thể xóa hết các vết cào trước đêm nay.
d’ Escrainville cũng to tiếng cãi lại. Tên hoạn quan trề môi giống như một mụ già khó tính và im bặt.
Đôi mắt tên cướp biển đỏ ngầu, môi mím chặt. Hắn đảo mắt nhìn quanh, nhưng không để ý đến Angélique. Sau đó hắn đùng đùng bước ra.
Bọn nô lệ mang vào áo quần mặc ngoài phố cho cả ba. Angélique phải mặc một áo trùm đầu đen tuyền che cả mặt trừ đôi mắt che bằng một tấm mạng trắng. Bên ngoài mấy đứa nhóc ăn mặc rách rưới đang giữ mấy con lừa có đóng yên cương sẵn.
Người đàn bà Arménie nói rằng phương tiện chuyên chở này cốt để phô trương giá trị to lớn của họ. Đoạn chị ta và người đàn bà Nga quay ra trò chuyện với các hoạn quan bằng tiếng Thổ khiến Angélique cảm thấy lạc lõng.
Sau đó cả bọn đi đến tiệm may. Tên hoạn quan già mua mấy súc vải đủ màu và cả đồ trang sức nữa. Cuối cùng lão đề nghị đi về nhà qua bến cảng. Họ đi qua những đống chà là, dưa hấu, cam, chanh và vả chất đống trên những phiến đá lát đường màu đen. Rồi họ lại nhìn thấy cả một rừng cột buồm san sát gần bến cảng.
Trên đài chỉ huy của một thuyền chiến treo cờ Tunis, một tên mặt giống như yêu tinh, râu tóc để dài, mặc áo chẽn thêu kim tuyến và mang ủng da đỏ, đang đứng rống lên như một hải thần. Bọn hoạn quan dừng lừa lại để xem và trò truyện với ba người tù. Người đàn bà Arménie tình nguyện làm phiên dịch cho Angélique.
Qua câu chuyện Angélique biết kẻ kia là Eric Jansen tên phản đạo người Đan Mạch, đã từng sống hai mươi năm với bọn Berber. Để cứu chiếc thuyền chở quá tải của mình khỏi bị đắm trong cơn bão tối hôm trước, hắn đã phải quẳng xuống biển một phần hàng hóa tức là gần một trăm nô lệ từ Albanie. Giờ đây hắn đang hò hét đôn đốc việc bán một toán nô lệ khác “bị tổn thương” trong hầm chiếc thuyền bị bão. Đàn ông, đàn bà và trẻ con bị xây xát sống dở chết dở vì sợ, đang được thanh lý với giá rẻ ở bến cảng Candia này. Hắn giữ lại phần béo bở hơn của chuyến cướp vừa qua. Nỗi chán chường khiến hắn gắt gỏng dữ tợn và luôn mồm gào thét giục bọn quản nô thẳng tay đánh đập nô lệ.
Đám người đáng thương được đẩy lên những đống cột và thùng gỗ trên bến để cho công chúng dễ nhìn thấy. Những tên Ả rập mặc burnous trắng đang khản giọng rao hàng. Khách hàng được sờ soạng, cấu véo thậm chí còn giở mạng che mặt của những người đàn bà đang đứng trên bến cảng trần truồng, run rẩy. Một vài người cố lấy tóc che thân, nhưng bọn gác vung roi quất túi băn lại. Khách hàng thậm chí bắt họ há mồm để xem có gẫy chiếc răng nào không.
Angélique rùng mình: “Lẽ nào ta...” - Nàng tự nhủ - “Không, không thể được!”. Nàng nhìn quanh hi vọng tìm ra một lối thoát. Nàng nhìn thấy một lão già bán cam cứ nhìn nàng trừng trừng qua kẽ áo trùm. Lão ra hiệu cho nàng, rồi biến vào đám đông.
Đến bên ngoài Phòng tắm Thổ, Angélique lại nhìn thấy lão già bán cam. Khi lão cố ý vấp con lừa của nàng nàng nhận ra Savary.
- Đêm nay - Lão thì thầm - khi bà rời khỏi batistan bà nhớ chuẩn bị tư thế sẵn sàng. Tín hiệu sẽ là một pháo sáng màu xanh. Con trai lão sẽ dẫn đường cho bà, nhưng nếu nó không gặp được bà thì bằng mọi cách bà cố đến chỗ Tháp thập tự quân gần cảng.
- Không được đâu, tôi làm thế nào mà qua mắt bọn gác được?
Tôi nghĩ rằng lúc đó bọn gác sẽ quan tâm đến một cái khác kia chứ không phải là… - Savary nhoẻn miệng cười, và đôi mắt đeo kính của lão lóe lên ma quái: “Sẵn sàng!”.
Mặt trời đã xế bóng khi toán nô lệ khiêng ba người đàn bà trong những chiếc kiệu bịt kín đến batistan.
Đám người đứng bên ngoài ngôi nhà quá đông, nên ba người bị bắt vẫn bị bọn hoạn quan đi kèm phải chen lấn mới vào được bên trong.
Angélique gần như chết ngạt dưới các lớp mạng che. Tất cả tuồng như diễn ra trong một giấc mơ, như thể nàng bị cuốn vào một guồng máy rồi đột nhiên bị thả ra trước ngưỡng cửa của dãy phòng, nơi nàng cùng với những người khác sẽ bị những cặp mắt thèm thuồng xem xét. Nàng gạt một tấm mạng che sang một bên cho dễ thở, nhưng tên hoạn quan trẻ ra hiệu bảo nàng dứt khoát phải che lại. Nàng giả vờ không hiểu, và tiếp tục quan sát đ
m khách hàng lũ lượt kéo đến, gồm những người Thổ, Ả Rập, và châu u. Họ qua sân trong và đi vào các phòng bên trong.
Bỗng Angélique nhìn thấy Rochat, viên phó lãnh sự ở cổng ra vào. Y vẫn để bộ râu dài hàng tuần không cạo và tay kẹp một cặp giấy tờ. Nàng chạy vội lại chỗ y.
- Này ông Rochat - nàng thì thầm - Ông nghe đây. Tôi không có nhiều thì giờ. Ông bạn d’ Escrainville đểu cáng của ông sắp sửa mang tôi ra bán đây. Ông cố giúp tôi nhé! Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn ông. Tôi có một tài sản rất lớn tại Pháp. Ông hãy nhớ một điều là tôi không đánh lừa ông về chuyện một trăm lirve tôi hứa cho ông hôm trước đâu. Tôi biết là bản thân ông không thể can thiệp giúp tôi được, nhưng liệu ông có thể thuyết phục một số khách hàng theo đạo Cơ đốc, các Hiệp sĩ xứ Malte chẳng hạn, những người có rất nhiều thế lực ở đây, để họ xót thương cho cái cảnh ngộ oan nghiệt của tôi không? Tôi không chịu nổi cái ý nghĩ rằng mình sẽ bị bán cho một tên Hồi giáo và rơi vào hậu cung. Ông nói với các Hiệp sĩ tôi sẵn sàng trả bất cứ số tiền chuộc nào chỉ cần họ thắng trong cuộc đấu giá và cứu tôi ra khỏi nanh vuốt của những tên phản đạo. Liệu họ có rủ lòng thương xót một người đàn bà Cơ đốc khốn khổ không?