Nàng để mặc lão với những giấc mơ của lão vì vừa lúc ấy nàng trông thấy Flipot trở lại với một gã to lớn đội mũ đỏ của thuyền trưởng.
- Té ra bà là người sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền lớn để đi sang đảo Crète? - Y kêu lên giơ hai tay lên trời - Tôi cứ nghĩ rằng bà là một bà lão điên rồ nào đó chẳng còn cái gì để mất ngoài nắm xương tàn. Bà đã lấy được tấm chồng nào để đầu óc trở lại tỉnh táo bình thường chưa? Hay là bà muốn kết thúc cuộc đời trong hậu cung của Đại đế Thổ Nhĩ Kỳ.
- Tôi đã nói là tôi muốn đi Crète chứ không phải Constantinople.
- Nhưng đảo Crète nằm trong tay người Thổ Nhĩ Kỳ. Ở đấy toàn bọn hoạn quan cả đen lẫn trắng chúng đến đấy để mua người với giá rẻ mạt cho chủ chúng. Bà đến đấy mà không bị cướp bóc dọc đường thì quả là may mắn.
- Ông có đi Crète không?
- Ồ, cố nhiên là tôi đi - Viên thuyền trưởng làu bàu - nhưng tôi không định nói là tôi sẽ đến nơi.
- Cứ nghe ông nói ai cũng nghĩ là bọn cướp biển Bacbary đang chực sẵn ở ngay bên ngoài bến cảng này.
- Chính thế - Chỉ mới tuần trước người ta phát hiện ra một chiếc tàu gale Thổ Nhĩ Kỳ đang hoạt động ở các đảo Hyeres. Thậm chí chỉ để dọa chúng thôi, hạm đội của ta không đủ sức. Lạy Chúa, thật là nhục nhã! Bà có thể tin rằng chẳng mấy chốc chúng sẽ phát hiệnà và thế là tất cả bọn buôn nô lệ ở Địa Trung Hải bất kể da đen, da trắng hay da nâu, người Giatô hay Thổ, người Berber hay cướp biển đều sẽ đánh nhau chí chết để giành lấy cái may mắn được bán bà cho một lão pasha khò khè nào đó. Bà nghĩ thế nào nếu bà bị tung qua ném lại trong một trò chơi như thế? - Y hỏi chỉ vào một thương nhân Thổ béo mập cùng đám tùy tùng đang đi xuống bến cảng.
Angélique mải mê nhìn đám rước, một quang cảnh khá quen thuộc ở Marseille nhưng hoàn toàn mới lạ đối với nàng. Những dải khăn đồ sộ màu xanh lục và da cam bằng the nổi bật lên trên các khuôn mặt đen xạm như những quả bí ngô.
- Nom họ không có vẻ hung ác như ông tả - Angélique nói để trêu tức viên thuyền trưởng - và họ ăn mặc đẹp thật.
- Ôi dào! Vàng thật không lấp lánh bao giờ. Chúng biết là chúng đang ở trên lãnh địa của chúng ta. Bọn thương nhân bao giờ cũng là những kẻ xử sự đàng hoàng nhất ở Marseille. Nhưng một khi đã qua khỏi Đảo If thì chúng giở ngay trò cướp bóc, không, bà ơi bà đừng nhìn tôi như thế. Tôi sẽ chẳng dại gì dính vào công việc của bà, Đức Mẹ sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi.
- Thế còn tôi? - Savary hỏi - Bà có đưa tôi theo không?
- Ông cũng đi Crète sao?
- Đi Crète và xa hơn nữa. Chả giấu gì bà, tôi định đi Ba Tư, nhưng bà chớ nói cho ai biết đấy.
- Ông định giả tôi bao nhiêu?
- Tôi không giàu có gì, đúng thế, nên tôi đề nghị ba mươi livre. Viên thuyền trưởng cau mày - không được đâu. Cá với ông lẫn bà đây, có ba mươi livre ông không thể nào đi xa hơn Nice. Chẳng tương xứng tí nào với bao nhiêu rủi ro tôi sẽ phải chịu. Còn bà, thưa bà, bà sẽ thu hút bọn Berber giống như cái xác chết thu hút cá mập vậy, xin bà tha lỗi về cách ví von ấy - Y nâng mũ trùm lên với một điệu bộ kiểu cách rồi trở về tàu đang đậu ở cạnh bến.
- Bọn chúng cùng một giuộc với nhau cả, bọn thủy thủ Marseille này - Savary giận dữ nói - Chúng nó tham lam và lý tài như bọn Ácmani.
- Nói chuyện với các thuyền trưởng khác cũng chẳng được tích sự gì - Angélique nói - Động mở mồm là chúng bắt đầu nói đến hậu cung và nô lệ. Cứ như lời chúng thì ai đi biển rốt cuộc cũng rơi vào hậu cung của vua Thổ cả.
- Hay vua Tunis, vua Angiêri, quốc vương Marốc, Savary nói thêm - Đúng, cũng lắm khi xảy ra chuyện đó. Nhưng không liều thì chẳng bao giờ đi biển được cả.
Angélique thở dài. Từ sáng đến giờ đáp lại yêu cầu đó của nàng người ta chỉ toàn tỏ ra kinh ngạc, nhún vai hay từ chối. Một phụ nữ đi Crète một mình! Bà điên à! Khà, bà thì phải có cả hạm đội hoàng gia hộ tống mới đúng chứ!
Savary cũng đã gặp những khó khăn tương tự, nhưng chỉ vì lão thiếu tiền.
- Chúng ta cùng hiệp lực vậy - Angélique bảo lão - nếu tìm được tàu tôi sẽ bao ông luôn.
Nàng cho lão địa chỉ quán trọ nàng đang ở, và sau khi lão ra đi tìm con tàu khác, nàng ngồi chốc lát trên một khẩu đại bác mới, trong số nhiều khẩu trên cảng mà chắc chắn người phụ trách quân nhu hải quân đã quên. Bây giờ hình như chúng được dùng làm ghế ngồi cho khách dạo mát trên khu cảng hơn là để nhả đạn vào các tàu gale Barbary.
Các bà thuộc khu Canibê của thành phố đang ngồi ở đây đan len và đàm tiếu trong khi chờ đợi những người đánh cá trở về. Cạnh đó là người bán hàng rong.
Angélique cảm thấy người đau ê ẩm và đầu nhức nhối vì nắng gắt. Nàng thèm thuồng nhìn các bà đội những chiếc mũ cói rộng vành để che mát những khuôn mặt có vẻ đẹp cổ điển với đôi mắt rất to và đôi môi dày. Đức tính vương giả đã ăn sâu vào trong người họ, ngay cả khi họ chửi rủa khách qua đường vì những người này không chịu mua hoa cẩm chướng và các bó hoa họ chìa ra mời, hay tuôn ra những lời chào nồng nhiệt đối với ai dừng ở gian hàng của họ.
- Bà mua cho tôi con cá tuyết này - Một người bán hàng gạ gẫm Angélique - Đây là con cuối cùng của tôi đấy. Xem này, óng ánh như đồng xu
- Tôi chả biết làm gì với nó.
- Kìa, ăn chứ còn làm gì! Không ăn thì còn làm gì nữa?
- Nhà tôi ở xa, và tôi chẳng có gì để đựng cả.
- Cho nó vào bụng, cho vào trong ấy thì yên chuyện.
- Ăn sống à?
- Không, mang nướng trên lò than của các Cha dòng Capuchin (dòng tu Thánh Francois thuộc đạo Giatô). Này, đây là một nhánh cỏ xạ hương, cho vào bụng nó mà nướng.
- Tôi chẳng có cái đĩa nào cả.
- Ra bãi biển nhặt một hòn đá.
- Cũng không có đĩa.
- Sao bà rắc rối thế! Dùng tay ấy!
Cuối cùng Angélique đành mua con cá cho xong nợ. Cầm đuôi con cá, Flipot lang thang đến một góc bến ke, nơi ba lão Capuchin cai quản một kiểu bếp ngoài trời đang dùng môi múc cháo cá từ một cái nồi lớn và phân phát cho người nghèo. Chỉ phải giả mấy xu là có thể nấu nướng trên hai lò than. Mùi cá nướng và cháo khiến Angélique chảy nước dãi và nàng chợt nhận ra là mình đói.
Bây giờ là lúc các công dân, ngay cả các nhà trưởng giả bảo thủ nhất đều xuống khu cảng để hít cái mùi thơm lạ lùng và tuyệt diệu ấy.
Cách chỗ Angélique không xa, một bà lão ăn mặc chỉnh tề đang bước xuống kiệu, theo sau bà là một cậu bé. Nó nhìn một cách thèm thuồng cảnh bọn cầu bơ cầu bất đang nhảy lộn nhào trên các kiệu bông.
- Con chơi với chúng nó được không mẹ? - Nó van xin.
- Không, thậm chí không được nghĩ đến chuyện đó, Anathan - Người đàn bà giận dữ đáp - Chúng nó chỉ là lũ đầu đường xó chợ.
- Chúng nó lắm trò vui thế! - Thằng bé dỗi.
u yếm nhìn cậu bé, Angélique nghĩ đến Florimond và Cantor. Ngày xưa nàng cũng đã từng chơi như thế.
Khó khăn lắm nàng mới thuyết phục được Florimond đừng theo mình. Cách duy nhất là bảo rằng nàng chỉ đi vắng vài ba tuần lễ, có thể chỉ hai tuần thôi nếu gặp may. Nàng sẽ đi Lyon bằng xe trạm rồi xuôi sông Rhône bằng thuyền, tìm Cha tuyên úy và trở về nhà mình ở Paris trước khi cảnh sát của Đức vua phát hiện ra sự vắng mặt của nàng: “Đây sẽ là vố hay nhất tôi sẽ chơi ông, ông Đêgrê ạ!” - Nàng tự nhủ.
Nhớ lại chuyến đi mạo hiểm của mình, tim nàng đập nhanh. Florimond nói không sai: đường hầm vẫn hoàn toàn dùng được. Cái vòm kiến trúc thời Trung cổ được xây dựng bởi bàn tay thành thục về công trình mỏ, vẫn đứng sừng sững trước sức tàn phá của sự ẩm ướt sau một thời gian dài. Florimond đã dẫn mẹ đi đến ngôi nhà thờ bỏ hoang đã đổ nát trong khu rừng Vincennes. Angélique tự hứa sẽ sửa sang ngôi nhà thờ đó để chờ ngày đón ông chủ về. Nhưng liệu ông có thể về không? - Angélique băn khoăn - một khi ông đã gần như biệt vô âm tín.
Nàng xúc động ôm hôn con trai khi ánh bình minh vừa ló qua kẽ lá trong rừng. Nó dũng cảm, cũng kiêu hãnh như mẹ và cũng biết giữ bí mật một cách tài tình. Nàng đã nói với con như thế trước khi hai mẹ con chia tay. Nàng nhìn theo cái cửa sập từ từ khép lại trên mái tóc quăn của con trai. Trước khi để cánh cửa sập xuống, Florimond đã nháy mắt với mẹ. Đối với nó đó chỉ là một trò chơi gây thêm hứng thú và tạo cho nó một cảm giác mình là người quan trọng.
Sau đó Angélique, có Flipot đi cùng để mang túi cho nàng, bắt đầu cuốc bộ đến làng bên cạnh và thuê một cỗ xe đưa nàng đến Nogent. Ở đây nàng đã đi xe trạm.
Nàng đã đến đích đầu tiên Marseille. Giờ đây lại là một đích khác: đảo Crète. Câu chuyện trao đổi với Cha tuyên úy gợi cho nàng một con đường mới phải theo khó khăn và tế nhị…
Cái khâu tiếp theo trong sợi xích là một người Ả rập buôn nữ trang, có đứa cháu là kẻ cuối cùng thấy Joffrey de Peyrac còn sống. Làm thế nào để tìm ra được người thương nhân này, đó là một vấn đề rất khó khăn. Liệu y có tìm giúp người cháu không? Nhưng Angélique tự nhủ: Crète là một điểm lành. Đó là hòn đảo mà vì nó nàng đã mua chức vụ Lãnh sự Pháp. Thế nhưng nàng không biết làm thế nào sử dụng được chức tước của mình bởi vì nàng đang xúc phạm nghiêm trọng đến vua nước Pháp. Vì lẽ đó, và nhiều lẽ khác nàng biết rằng nàng phải rời khỏi Marseille càng nhanh càng tốt và trước hết là tránh mọi cuộc gặp gỡ với những người cùng tầng lớp với mình, Flipot vẫn chưa về. Phải chăng nó mất ngần ấy thời gian để rán một con cá? Nàng tìm kiếm và trông thấy nó đang nói chuyện với một người đàn ông mặc áo vét dài màu nâu, ông già này hình như đang hỏi nó nhiều câu hỏi. Flipot tỏ vẻ lúng túng. Nó vừa nhảy lò cò vừa tung hứng con cá nóng bốc hơi, cử chỉ hài hước đó chứng tỏ con cá làm nó bỏng tay. Nhưng người kia tỏ ra muốn giữ nó lại. Cuối cùng gã nhún vai bỏ đi và mất hút trong đám đông. Angélique nhìn thấy Flipot đi theo hướng ngược lại chỗ nàng đang ngồi.
Rồi một lát sau nó lại xuất hiện, đi loanh quanh để tránh sự chú ý của nàng. Nàng đi theo nó và tóm được nó trong lối đi tối, nơi nó đang vờ trốn sau một cái cột cổng xây.
- Thế là thế nào? - Nàng hỏi - Người đàn ông nói chuyện với mày lúc nãy là ai thế?
- Con không biết. Thoạt tiên con không tin gã… Cá của bà đây thưa bà Hầu tước. Còn lại khối đấy. Con đã đánh rơi một ít trong khi chạy.
- Gã kia hỏi mày những gì?
- Con là ai? Con từ đâu đến? Con làm cho ai? Con chỉ nói: “Tôi không biết”. “Này, này”, gã nói - “đừng nghĩ rằng ta tin là cậu không biết tên chủ của cậu đâu nhé. Cứ tiếp tục cái kiểu ấy thì ta sẽ nhờ đến cảnh sát!”. Con một mực nói: “Vâng thưa ông, không, thưa ông tôi không biết…”. Thế là gã nổi cáu: “Có phải bà Hầu tước Plessis-Bellières ở kia không? Bà ta đang ở quán trọ nào?” . Cậu muốn nói gì nào?
- Mày nói gì?
- Con ứng khẩu nói ra tên một quán trọ - Quán Bạch Mã. Nó ở phía bên thành phố.
- Đi theo ta, nhanh lên.
Trong khi hai người vội vã đi lên dốc phố, Angélique tìm cách giải quyết vấn đề khó xử. Liệu cảnh sát có bám nàng không? Tại sao? Có lẽ nào cuộc chạy trốn của nàng lại bị Đêgrê phát hiện nhanh đến thế, và liệu chàng có cho người bám theo nàng không? Bỗng nhiên nàng nghĩ ra lời giải đáp. Vivonne đã nhận ra nàng trong đám đông hôm nọ khi chàng lên bờ. Lúc đó chàng không nghĩ ra tên nàng, nhưng biết là khuôn mặt của nàng rất quen thuộc. Giờ đây chàng đã nhớ ra và cho gia nhân đến tìm nàng. Có phải vì hiếu kỳ chăng? Hay vì tình bạn? Hay vì lòng kính trọng một cận thần của Đức vua?
Gì thì gì nàng không háo hức gặp chàng lắm, nhưng sự chú ý của chàng vẫn làm nàng bận tâm. Vivonne thường hay xa Versailles vì bận chiến dịch cho nên không nắm được những điểm tế nhị của các mưu đồ trong Triều, và không được biết những tin tức mới nhất về Plessis-Bellières phu nhân, tình nhân tương lai của Đức vua. Nàng tin chắc điều đó. Do đó, không nghi ngờ gì nữa... Trừ phi gã đàn ông kia được cử đến bởi Cha tuyên úy, người duy nhất biết nàng đang ở Marseille. Có thể Cha có được một vào thông tin mới về Ali Mectub hay Mohamed Raki. Nhưng nếu Cha có, Cha đã cử người đến quán Sừng Vàng vì Cha biết nàng ở đó.
Khi về đến quán trọ người nàng đầm đìa mồ hôi và tim nàng đập thình thịch.
- Bà không nên tất ta tất tưởi như thế - Chủ quán khuyên nàng - Phụ nữ Paris các bà lúc nào cũng làm như phải tất bật suốt ngày. Bà vào đây, tôi đã chuẩn bị cho bà một món cà chua, một ít ớt Jamaica và dầu, bà kể cho tôi nghe cả ngày hôm nay bà đã làm gì.
Mụ chủ quán sở dĩ chăm sóc Angélique như mẹ con chắc chắn là vì hầu bao của nàng đầy ắp. Mụ rất muốn khám phá mọi mưu đồ đang diễn ra vì mụ thừa biết quán trọ của mụ chẳng sang trọng gì cả và nhận ra ngay Angélique là một mệnh phụ giàu sang quen được hàng trăm người hầu hạ phục dịch, song không muốn được người ta chú ý ở đây. “Ôi ái tình, ái tình” - Bà đi lối này - Mụ bảo Angélique - Góc này yên tĩnh lắm, lại cạnh cửa sổ. Bà sẽ riêng biệt một mình ở cái bàn con này, và xa như thế các khách khác sẽ không thể liếc mắt đưa tình với bà được. Bà muốn uống gì? Một tí Rosé (Một thứ rượu vang màu hoa hồng) xứ Var nhé?
Mụ đặt trước mặt Angélique một chiếc ló chân bằng thiếc và một bình tráng men rịn mồ hôi vì chất nước mát bên trong.
Angélique ngước mắt lên nhìn và nhìn thấy Flipot đứng ở khung cửa, đang huơ tay ra hiệu cho nàng. Mụ chủ quán vừa quay đi, nó lao bổ về phía bà chủ và thì thầm: “Hắn đến đấy... con người xấu xa kia… con người xấu xa nhất trong bọn chúng”.
Nàng đưa mắt nhìn qua cửa sổ và nhìn thấy một người khoác một chiếc áo choàng lụa màu tím, một chiếc can đầu bịt bạc bắt chéo sau lưng. Người đang đi về phía quán trọ chẳng phải ai khác ngoài đại úy cảnh sát Phrăngxoa Đêgrê