Chương 17: Chương 07 - part 2

Điều đặc biệt hơn, trong Liêu trai, sông Nại lại biến thành cống nước thải trong thành, tất cả rác rưởi của cửu u thập bát ngục đều quy tụ về nơi đây. Trong cuốn Vương thập cũng nhắc đến điều này: “Nước sông vô cùng hỗn độn, mùi thối không thể ngửi”, trầm tích còn lại chỉ là “thịt nát xương tan”, mà trong Tửu cuồng lại cho thêm vào đó một vài tình tiết nhỏ khác: “Trong dòng nước có một vật rất sắc, đâm thẳng vào bắp chân, cử động rất khó, đau đớn vô cùng, nước đen bẩn, hôi thối, tự nhiên chảy vào trong cổ họng, thật khó có thể chịu đựng được.” Đây chỉ là tùy ý chỉ ra vài điểm mà thôi, tất cả có trong tiểu thuyết của Bồ Ông. Chỉ vài tiểu tiết ấy cũng đủ cho ta thấy, thành thị từ thời xa xưa cũng đã có cảnh ô nhiễm như thế này, còn khoảng cách của nó đến sông Nại xa gần ra sao có lẽ cũng không cần thiết phải kiểm tra độ chính xác.

Tiếp đến, chúng ta cùng tìm hiểu về cầu sông Nại, tức cây cầu bắc qua sông Nại. Trong Dậu dương tạp trở của Đoàn Thành Thức người đời Đường, đầu cuốn thứ hai Minh kinh Triệu Nghiệp có viết về Triệu Nghiệp bị bệnh nặng phải đến âm phủ.

Lúc đầu tinh thần du tản, không tập trung, đi đứng như trong mộng, có Chu Y Bình Trách dẫn đường đến phía đông. Ra khỏi núi, đến nơi bị cắt đoạn, thấy có rất nhiều người. Đứng đó quan sát hồi lâu, lại tiếp tục đi đến phía đông, thấy có một cây cầu được sơn son thiếp vàng. Bước qua cây cầu là vào trong thành, đến được Tào Tư, người dân sinh sống ở đây rất đông.

Con sông này chính là sông Nại và dùng vàng bạc để trang trí thành cây cầu bắc ngang. Cây cầu đó tuy không có tên gọi cụ thể nhưng người xưa vẫn gọi nó là cầu sông Nại. Về sau, trong bút ký của người đời Tống, còn được gọi là “cầu U Tư”[14]. Chỉ đến cuốn thứ ba Đàn nguyên đường tể trong tập Di kiên chí bổ mới nói rõ hơn về “cầu sông Nại”. Đồ tể Đường Phúc chỉ vì giết chết một con nhện mà bị dẫn đến sông Nại chịu tội, Đường Phúc cầu xin: “Tôi tự ngẫm cả đời không giẫm đạp lên côn trùng, chỉ nhớ là đã giết mười ba con trâu, hai mươi con lợn, nếu như được thả ra, xin thề sẽ cải tạo” và:

[14] Theo Hồng Mại, cuốn thứ tư, Thái dương bộ Vương thị phụ, trong Di kiên chi mậu.

Viên lại nói: “Đây không thuộc thẩm quyền quyết định cùa ta, đi đến đầu cầu sông Nại, đích thân nhà ngươi hãy nói với Phán quan về ý nguyện của mình.” Và cả hai cùng đi tới đó. Khi đến bên bờ sông, ngước nhìn lên cây cầu cao bắc ngang qua sông, một vị quan áo mũ chỉnh tề đang đứng chờ ở đó, trên tay còn cầm một cuốn sổ. Viên lại ghé vào tai người kia nói: "Đó chính là Phán quan!” Hai con chó dữ sủa vang khắp một vùng, hung dữ lao ra ngăn cản không cho ai qua. Thấy vậy, người đồ tể cung kính vái chào. Vị quan áo đỏ đọc trong cuốn sổ cầm trên tay, nói: “Có lẽ đã có sự nhầm lẫn ở đây, kẻ giết Hi Tử là Bành Phú, không liên can đến ngươi, tức là tuổi thọ của ngươi vẫn chưa hết, ngươi có thể quay về dương thế!”

Những tài liệu này không những xuất hiện trong các tác phẩm văn học, mà còn là những tài liệu đầu tiên lý giải rõ ràng sông Nại chính là cánh cổng dẫn vào thế giới âm phủ. Chỉ những hồn ma và những người đáng chết mới phải vào bên trong còn những người không đáng chết ngay lập tức phải quay về dương thế, ngay cả khi muốn nhìn mặt Diêm Vương cũng không được (đây có thể là để khống chế những người dân xảo trá ở dương giới đến, giống như kiểu Tịch Phương Bình đến kiện âm phủ), bởi ở đó luôn có hai con ác cẩu sẵn sàng chặn lại, điều này trước và sau sẽ không nhắc lại nữa. Nhưng hai con ác cẩu này không phải là không có lai lịch, nó có nguồn gốc từ trong truyền thuyết cổ của Ấn Độ, nói về hai con khuyến bốn mắt Saladida của thần cai quản địa phủ Diêm Ma.

Trong Di kiên bính chí, cuốn mười, Hoàng pháp sư tiếu[15] nói âm gian có một “con sông có màu xám”, giống như đời Đường có người nói về sông Nại, có thể có sự hiểu nhầm đó là sông Nại. “柰” (nại) “灰" (khôi), hai chữ gần giống nhau về nét (địa ngục trong kinh Phật có “khôi hà ngục”[16], có thể do đó mà hiểu nhầm, điều này cũng không thể khẳng định chắc chắn được). Trong tác phẩm ấy có nhắc đến cầu trên sông Nại, nhưng chỉ là để cho những người vô tội đi qua sông, ở đó hoàn toàn không có Minh sứ hay chó dữ đứng trông, còn về người bị trọng tội, thì vẫn giống như trước đây có ghi lại, phải cởi áo lội qua sông, mà trên bờ có nhiều cây cối thì phải cởi áo ra và mắc lên đó. Nhưng có cái không giống như trước đây, đó là những chiếc áo này khi mắc lên đều phải viết rõ tên của mỗi người, sau đó đặt lên xe, chuyển qua cầu, khi qua được sông thì người đó lại mặc vào. Trên người không một mảnh vải đến gặp Diêm Vương thì cũng thật mất mặt, có thể thấy quan dưới âm phủ cũng đang dần dần trở nên “nhân tính hóa”.[17]

[15] Nghĩa là: lễ tế rượu của Hoàng pháp sư.

[16] Nghĩa là: ngục ở sông Khôi.

[17] Cây này trong Tuyên thất chí là móc dùng để cho vong hồn treo quần áo, nhưng trong Thanh tỏa cao nghĩa Lưu Phủ thời Bắc Tống, tự nhiên cho nó biến thành một cây cao trăm thước, thân gỗ khô rộng tới sáu mươi vòng. Cây to như thế này không thể mắc quần áo, chỉ có thể làm nơi vong hồn ngồi nghỉ dưới gốc cây. Chỉ là cái cây này cao trăm thước, thân gỗ rộng tới sáu mươi vòng, đây là cây ở đâu, rõ ràng đó là những tảng đá to lớn có hình dạng giống như cây mà thôi.

Tiểu thuyết và kịch nói của hai đời nhà Minh và nhà Thanh nhiều lần có nhắc đến cây cầu bắc qua dòng sông Nại, nhưng mỗi người lại nói mỗi kiểu khác nhau. Rõ nhất là trong Tây du ký, khi Đường Thái Tông vào âm phủ được đi qua cầu sông Nại. Trên sông để vào âm phủ có ba cây cầu, một là cầu vàng, hai là cầu bạc, ba là cầu sông Nại. Dưới chốn âm gian cũng có sự phân biệt đối xử, cầu vàng chỉ để chuẩn bị cho các bậc hoàng đế, vương, tướng, những người trung hiếu, hiền lương, công minh chính đại cũng chỉ được đi qua cầu bạc, còn lại những hồn ma vô công, vô đức chỉ có thể đi qua cầu sông Nại mà thôi. Đó là cây cầu “gió mùa đông thổi liên tục, sóng bằng máu chảy cuồn cuộn và không ngừng vọng lại những tiếng khóc than.”

Cầu dài vài mét, rộng chỉ bằng ba cái mụn trên đầu mũi, cao những trăm thước. Bên trên không có lan can để bám, bên dưới có kẻ cướp tác oai tác quái. Gông quấn quanh người. Ngươi hãy nhìn xem, thần tướng ở cây cầu đó rất hung ác, ngang tàng, những hồn ma ác nghiệt dưới lòng sông lại vô cùng khốn đốn, trên nhánh cây có treo những chiếc áo đủ màu xanh, đỏ, vàng, tím... phía đầu tường quay về bờ, người phụ nữ quỳ phục xuống chính là hạng dâm đãng, khi còn sống luôn miệng mắng chửi bố mẹ chồng. Rắn đồng, khuyển sắt tranh nhau xông lên cắn xé, ăn thịt, vĩnh viễn không có đường thoát khỏi dòng sông Nại.

Cuốn Kế Kim Bình Mai của Đinh Xán Khang cũng nói đến ba cây cầu, nhưng là vàng, bạc, đồng, nói chung đều gọi là cầu sông Nại. Nhưng không nói đến tư cách của những hồn ma đi qua cầu, bọn họ chỉ có thể bơi qua sông:

Con sông Nại này bắt nguồn từ phía Bắc chốn u minh đại hải, chảy ra một dòng nước vô cùng bẩn thỉu, chạy vòng quanh phủ Đông Nhạc, phàm là người thường thì đều phải qua nơi này. Có ba cây cầu, một là cầu vàng, là đạo Phật, đạo Thánh, đạo Tiên đi về nơi đây, hai là cầu bạc, là thiện nhân, hiếu tử, trung thần, nghĩa sĩ, tiết phụ, trinh phu đi đến nơi này, còn lại là một cây câu đồng, dành cho những người bình dân tốt bụng, hoặc có quan thanh, hoặc có hương bình, tích đức không rượu tiền, hoặc luân hồi không có trọng tội, hoặc sinh ra trong gia đình giàu có, chuyển sinh quan tước, hoặc nữ hóa thành nam, có nhiều công lao... mới được đi cây cầu này. Tất cả đều có sự phân biệt rõ ràng. Cây cầu thần xuất hiện thì sẽ không có ma, xứng đáng đi cây cầu nào, đi đến bên bờ sông, cây cầu đó sẽ xuất hiện, liền sau đó sẽ có đồng tử dẫn đường, không xứng đáng đi thì cây cầu sẽ không xuất hiện, chỉ có dòng nước đen ngòm mênh mông, chảy cuồn cuộn như sóng biển...

Nhưng trong Tam bảo thái giám tây dương ký hồi thứ tám mươi bảy, trên sông Nại lại có duy nhất một cây cầu, chỉ người tốt mới được đi qua.

Chỉ nhìn thấy đằng trước có một con sông máu, đi ngang qua, bên trên có duy nhất một cây cầu gỗ, rộng không quá một thước, vừa tròn vừa trơn. Vương Minh đi đến bên cầu, chỉ nhìn thấy trên cầu cũng có người đi, tràn phan bảo cái (cờ dài và cái lọng quý, còn gọi là tàn quý), tiền hô hậu ứng. Dưới cầu cũng có chỗ ngập máu, có những người buộc phải đi qua đó, bên cạnh lại có nhất đẳng Kim Long Ngân - con bọ cạp, chó sắt, rắn đồng tập trung bên những người đó, người bị cắn, kẻ bị thương. Vương Minh hỏi Phán Quan: “Tỉ phu, đây gọi là cầu gì mà sao thấy nguy hiểm vậy? Có người thì đi được, nhưng lại có người không đi được?” Phán Quan đáp: “Đây gọi là cầu sông Nại, làm ma thì đều phải đi qua đây. Nếu như khi làm người trần, tâm thuật quang minh, hành động chính đại, trong đời không có gì là không dám nói với người khác, không có gì là không dám để trời biết, những người chính nhân quân tử chết xuống âm phủ, Diêm quân đều rất khâm phục và kính trọng, không dám lãnh đạm, lập tức dặn dò kim đồng ngọc nữ, trường phan bảo cái, hướng dẫn quân tử đi trước, người ủng hộ theo sau, đi qua cây cầu này giống như đi dưới đường bằng phẳng vậy. Còn nếu ở trần gian tâm thuật ngu muội, hành động quỷ quyệt, làm trái luân thường đạo lý, làm ngược với lẽ trời, những hạng người này thuộc dạng âm tà tiểu nhân, chết xuống âm phủ, Diêm quân sẽ quát mắng người đi qua cây cầu này, có khi còn bị ngã xuống dòng sông máu, thì sẽ có Kim Long Ngân - con bò cạp, chó sắt, rắn đồng đến cắn và làm anh ta bị thương.”

Trong tiểu thuyết Thanh lầu mộng, hồi thứ ba mươi sáu có nói đến cầu sông Nại cao trăm trượng, rộng chỉ có ba phân, giống như trên khe núi hẹp có kẹp một dây sắt, vong hồn dù là thiện hay ác đều không dễ dàng đi qua nơi đây. Mà dưới chân cầu lại là “ao máu bẩn”, ở đó có không biết bao nhiêu nam nữ bị chết chìm. Đều là cầu sông Nại mà có đến bao nhiêu cách nói khác nhau, thật sự làm cho người ta không biết phài tin vào đâu.

Nói đến nỗi băn khoăn, đắn đo, chọn lựa, trong Hồi dương ký của Trần Thúc Văn có nói: “Vào trong Quỷ môn quan liền nhìn thấy một cây cầu, nhưng trên cầu lại chia làm ba con đường, trong số đó có một đường tên là “sông Nại”. Dòng sông dưới cầu rộng khoảng hơn mười dặm, dòng sông ấy không được gọi với cái tên “sông Nại”, mà lại định danh là “khổ hải”[18]. Rõ ràng kể chuyện về ma luôn phải biết cách sáng tạo những điều mới lạ, có như vậy mới thu hút được sự chú ý của người nghe. Nhưng nói về sáng tạo, mỗi người đều tùy theo cảm hứng của mình mà viết thành chuyện, kết quả thường giống như kéo của Vương Mã Tử, làm cho người đọc không biết phải theo ai, chỉ cảm thấy tất cà những chiêu trò đó là lừa người mà thôi.

[18] Nghĩa là: biển khổ.

Ma ở thành Phong Đô canh giữ Trường Giang hầu như chưa bao giờ nghe nói về cảnh ở sông Nại. Sông Nại ở nhân gian phải đi đến chân ngọn núi Thái Sơn để tìm kiếm, bởi vì thực tế thì muộn nhất là đến đời Nguyên - Minh, con người đã quy ước sông Nại trở thành ký hiệu của âm phủ, còn tính vị trí, cảnh quan dịch chuyển xuống chân núi rồi. Trong Tân biên liên tương sưu thần quảng ký - Hậu kỳ có đoạn viết:

Lý Cư vốn là người tài ba vùng Vệ Châu. Ông là tướng quân triều Chu Thế Tông, có tài cưỡi ngựa, bắn cung, lập nhiều công lớn cho đất nước. Sau này ông mắc trọng bệnh, nhiều người đến hỏi ông về bệnh tình, nhưng ông không nói, chỉ nói với đám đông rằng: “Ta đã truyền lại cho tướng quân Nại Hà.” Nói xong, ông ngừng thở. Hậu nhân lập đền thờ ông tại đây. Đến năm Khai Nguyên triều vua Đường Huyền Tông, phong ông là Linh phái tướng quân, năm Đại Trung Tường Phù triều vua Tống Chân Tông phong ông là Linh Hầu.

Cách nói “Nại Hà tướng quân” là đời thứ năm cũng được, Tống Chân Tông phong hầu cũng không có gì cần bàn cãi, tất cả những cái đó chỉ là do hậu thế truyền miệng, nên tin tưởng hay không cũng cần xem xét kỹ lưỡng. Có thể tin tưởng tuyệt đối có lẽ chỉ có người viết và biên tập Sưu thần quảng ký là Tần Tự Phổ, người đời Nguyên mà thôi. Mà điều tra rõ hơn trong cuốn chín, Đại sử cùa Chí Long, thực sự là có tìm thấy vị trí của sông Nại:

“Miếu của Linh Phái Hầu nằm tại Châu Thành, phía đông con sông Nại. Tên thần gọi tên cũ là Nại Hà tướng quân, đời sau thông Tuyền Hầu.”

Sơn Đông khảo cổ lục của Cố Viêm Vũ cũng nhắc đến “Biện Nại hà”:

“Nhạc từ tây nam, có nước chảy từ trong cốc ra, thành kênh rạch phía tây, từ đại dụ khẩu đến phía tây Châu Thành gọi là sông Nại, bên trái núi Cao Lý, có cầu bắc qua, gọi là“cầu sông Nại”, truyền thuyết truyền từ đời này sang đời khác nói về hồn ma người chết không được phép đi qua cầu thì gọi là “Nại hà” (phải làm sao). Việc này cũng giống như Hán Cao Đế nói “bá nhân giả, bách vu nhân dã” vậy.

Núi Cao Lý cũng chính là Cao Lý Sơn, hiện tại núi Cao Lý nằm trong khu vực Thái An, giờ đã trở thành công viên, từ bến tàu đi bộ theo hướng đông nam chỉ vài phút là tới nơi. Bởi vì miếu Phong Đô đại đế ở đó đã bị thiêu hủy từ lâu, không còn người đến đó để thăm quan, chiêm ngưỡng. Quả thực đến nay tôi cũng chưa thực sự nhìn thấy cái gọi là ngọn núi phía bên trái sông Nại. Mà Thái Sơn khai hợp vạn tượng, thư thái nghìn phương, ở đó cũng không cần thiết phải dùng đến những thứ của ma giới để mời chào, có lẽ sông Nại và kênh Phong Đô, Vọng Hương Sầm dần dần rồi sẽ bị du khách lãng quên thôi.

Nói về cầu ở sông Nại, trong cuốn Thiết địch hưởng tỏa ký, Lâm Thư - tác giả thời cận đại có viết:

Người Mãn (Phúc Kiến) cho rằng, muốn người chết được hưởng phúc dưới âm phủ thì phải mời đạo sĩ đến làm lễ tưới rượu cầu phúc. Đến ngày thứ bảy người ta lấy các tấm gỗ chống lên thành cây cầu, dưới cầu có đốt đèn hoa sen, bên trên gắn rất nhiều lọng mành, người ta gọi đó là cầu sông Nại. Người ta làm một hình nộm giấy tượng trưng cho xác người chết, sau đó đặt hình nộm đó vào trong một chiếc xe giấy, con cháu dắt chiếc xe ấy qua cầu, rồi đem hóa bên ngoài cổng. Sau đó, hỏi đạo sĩ làm như vậy người chết sẽ được đi tới đâu, đạo sĩ đáp: “Cái đó thì ta chịu ”

Bác y đình

Lúc đầu xem mấy chữ “bác y đình” này lại cho rằng là để thuận tiện cho các linh hồn cởi áo bên sông Nại mà lập ra một cái đình để che mưa che nắng. Nhưng một chữ “bác” lại làm cho người ta nghi hoặc, ví như cướp bóc, bóc lột... hay đại loại như vậy, đều ám chỉ một bên mạnh ào đến chèn ép một bên yếu. Vì thế nơi đây không đơn thuần là chỉ nơi hồn ma tự sửa sang dung mạo của mình (hay chính là chỗ để hồn ma cởi bỏ trang phục), mà nó giống như cách mà các đồ tể thường dùng để lột da. Mặc dù vậy, địa điểm của nó rất cụ thể và dễ bị phát hiện. Bác y đình này được khẳng định cũng từ sông Nại mà ra.

Vong hồn trước khi đi vào âm phủ cần phải cởi bỏ trang phục, cách nói này đã từng được nói đến trong Tuyên thất chí của Trương Độc, một học giả đời Đường. Và nguyên nhân của hành động kỳ lạ đó thật không dễ dàng cắt nghĩa, có thể là cuộc đời một con người, khi đến thì như con nhộng, còn khi đi thì lại không một mảnh vải che thân, mà sau khi con người chết, xuống dưới âm phủ thì cũng chỉ là linh hồn, con người có linh hồn nhưng quần áo thì không có hồn, vậy từ lúc anh ta thoát khỏi cái vỏ đó thì linh hồn đã trở thành linh hồn không mảnh vải che thân. Nhưng bất luận thế nào thì đó cũng là cách nói của dân gian về việc phải cởi bỏ trang phục trước khi qua sông Nại. Và cũng chính từ cách nói này mà đến đời nhà Thanh lại biến thành cách diễn đạt tinh tế hơn - “Bác y đình” dưới âm phủ. Cũng giống như việc những kẻ phạm tội ở trần gian, khi vào tù cũng phải cởi bỏ quần áo của mình và khoác lên quần áo phạm nhân. Điều này một cách vu vơ cũng có thể là nguyên nhân để tạo nên “bác y đình” trong thời hiện đại. Trong Chỉ trung nhân ngôn của Thanh Trình Chỉ Tường, quyển hai, Ngô mưu có đoạn:

Quỷ tay sai dẫn Ngô Du thập điện, uy phong lẫm liệt, không cần phải đợi, mà cầu sông Nại, Bác y đình, Vọng hương đài đều đã được nhìn thấy.

Trong Bắc đông viên bút ký kế biên của Lương Cung Thần, quyển bốn, U du xác ký[19] có ghi chép một câu chuyện kể lại sự việc tương tự như vậy một cách cụ thể, tỉ mỉ hơn.

[19] Nghĩa là: ghi lại chuyến du lịch dưới âm phủ.