Ngọn giáo và chiếc khiên từ xưa đến nay luôn là chủ đề bất biến trong chiến tranh. Thế nhưng, khi Phỉ Tiềm xem qua các sách thư mà Hoàng Thừa Ngạn lưu giữ, dường như thấy rằng phần nói về “giáo” hay “quyển binh khí” giờ đã phong phú thêm nhiều, còn phần “khiên” hay “quyển giáp phòng hộ” lại có phần đơn giản hơn. Dĩ nhiên, đây chỉ là cảm nhận của riêng Phỉ Tiềm; với người khác mà nói, quyển giáp vẫn được coi là vô cùng phong phú, từ chất liệu cho đến phương pháp chế tác đều được ghi chép rất chi tiết.
Theo quyển giáp, áo giáp thường được làm từ da bò, được tô vẽ màu sắc, còn loại giáp có chứa kim loại như đồng hoặc sắt mới được gọi là “khải”. Giáp khải này có cấu tạo khá chi tiết, thậm chí có cả các phương pháp đập nén và xâu kết các mảnh giáp. Hiện nay, vào thời Hán, có hai loại giáp chính là “tạp giáp” và “ngư lân khải”. Hai loại này đều có các mảnh sắt, nhưng tạp giáp thì ít hơn, còn ngư lân khải thì nhiều hơn.
“Tạp giáp” là loại áo giáp thường dành cho lính thường, loại thấp nhất chỉ như một chiếc áo giáp lớn, ghép từ những mảnh tạp giáp và nối với nhau bằng dây buộc ở vai và nách, chỉ đủ để bảo vệ phần ngực và lưng. Loại cao cấp hơn thì được gắn thêm một hàng mảnh giáp tầm trung để bảo vệ phần hông và eo, thêm vào đó là hai miếng giáp che vai.
“Ngư lân khải” thì chỉ xuất hiện từ cuối thời Tây Hán, kéo dài cho đến Đông Hán. Tên gọi này xuất phát từ việc nó được chế tạo từ các mảnh sắt nhỏ ghép lại như vảy cá, và ngoài các phần bảo vệ ít ỏi như tạp giáp, ngư lân khải còn có thêm “bồn lĩnh” bảo vệ cổ, “thích” bảo vệ cánh tay, cùng “tước vĩ” và “thối quần” bảo vệ chân. Tất nhiên, công đoạn chế tác và chi phí của ngư lân khải cũng cao hơn tạp giáp nhiều, thường chỉ có tướng lĩnh cao cấp mới sở hữu.
Nhưng sau đó… không còn gì thêm nữa. Không có loại giáp đan lưới, cũng chẳng có giáp tấm… Những loại này tuy thuộc vào loại trọng giáp, nhưng ít nhất trong sách của Hoàng Thừa Ngạn, Phỉ Tiềm không thấy xuất hiện. Dù sao, Phỉ Tiềm cũng đã hiểu biết chút ít về những loại này nhờ phim ảnh và trò chơi trong thời hiện đại. Ví dụ, giáp tấm từng là biểu tượng của giới quý tộc Âu Châu, khi mặc vào chẳng khác gì một cái hộp sắt, thậm chí đạn chì của súng hỏa mai cũng khó xuyên thủng. Tuy nhiên, những loại giáp này có yêu cầu rất cao về kỹ nghệ luyện kim, và vào thời Đông Hán, việc chưa xuất hiện cũng là hợp lý.
Nhưng liệu có cách nào đơn giản hóa công đoạn này, để loại giáp bảo vệ tốt hơn có thể xuất hiện sớm hơn? Hoặc ít nhất, tiết giảm được chi phí?
Nghĩ đến đây, Phỉ Tiềm quay sang hỏi Hoàng Thừa Ngạn: “Thưa nhạc phụ, hiện nay có kỹ thuật nào để chế tạo dây sắt hoặc các mảnh sắt không?”
“Dây sắt và mảnh sắt?” Hoàng Thừa Ngạn trước đó đã nhận ra Phỉ Tiềm đang suy tính điều gì đó, nhưng vì biết Phỉ Tiềm không phải là người nói mà không có cơ sở nên đáp lại: “Mảnh sắt thường là dùng cách rèn dập là chính, còn dây sắt… hiền tế muốn nói là dây ngắn hay dài? Nếu là dây ngắn, thường cũng là rèn dập trực tiếp, còn dây dài thì nung nóng rồi kéo dài ra.”
Trong vấn đề chế tác, Hoàng Thừa Ngạn vẫn khá am hiểu.
“Đều dùng sức người sao?” Phỉ Tiềm cảm thấy, dù là rèn hay kéo dài, vào thời Hán này đều dựa vào sức người, mà nếu tất cả đều dựa vào sức người thì sản lượng làm sao có thể cao được? Dù một người khỏe mạnh, cũng không thể làm việc suốt hai mươi tư tiếng không ngừng nghỉ.
“Hiền tế có ý tưởng gì chăng?” Hoàng Thừa Ngạn tò mò hỏi. Đối với một người thường xuyên nảy ra những ý tưởng mới như Phỉ Tiềm, ông thấy rất hài lòng. Đó cũng là một trong những lý do ông nhanh chóng quyết định gả Hoàng Nguyệt Anh cho Phỉ Tiềm.
“Chưa thể nói rõ ngay được, liệu chúng ta có thể đến xưởng xem thử không?” Phỉ Tiềm cảm thấy mơ hồ có một ý tưởng nào đó, nhưng không thể diễn đạt rõ ràng, nên đề nghị.
Nghe đến việc đến xưởng, Hoàng Nguyệt Anh – người vẫn đang ngồi ngoan ngoãn bên cạnh – liền không thể ngồi yên, mắt to chớp chớp nhìn Hoàng Thừa Ngạn. Hoàng Thừa Ngạn nhìn qua đã hiểu ý con gái, khẽ ho một tiếng, rồi nháy mắt với Phỉ Tiềm, không nói thêm gì. Dù sao, Hoàng Nguyệt Anh giờ đã là người của nhà họ Phỉ, cũng nên để Phỉ Tiềm quyết định.
Hoàng Nguyệt Anh lập tức hiểu ý cha, quay sang nhẹ nhàng kéo tay áo Phỉ Tiềm. Đang chìm đắm trong suy nghĩ về việc cải tiến áo giáp, Phỉ Tiềm quay đầu lại, thấy ánh mắt cầu xin của Hoàng Nguyệt Anh thì mềm lòng, liền nói với Hoàng Thừa Ngạn: “Thưa nhạc phụ, liệu có thể… cho Nguyệt Anh đi cùng không?”
“Haha, được, đi cùng, đi cùng!” Hoàng Thừa Ngạn thấy Phỉ Tiềm quan tâm đến cảm xúc của Hoàng Nguyệt Anh, trong lòng người cha cũng rất vui mừng.
Đến xưởng, Hoàng Thừa Ngạn tìm một thợ thủ công đến để trình diễn quy trình rèn sắt và chế tạo dây sắt. Phải nói rằng gia đình họ Hoàng có rất nhiều thợ thủ công, và ông không cần chọn lựa, có vẻ như ai cũng có thể thực hiện được những công việc này.
Rèn mảnh sắt cũng không khác mấy so với hình dung của Phỉ Tiềm. Sau khi nung nóng, chỉ cần gõ đập liên tục là xong. Nhưng làm dây sắt thì phức tạp hơn nhiều: đầu tiên là rèn ra mảnh sắt mỏng, sau đó dùng kéo sắt lớn để cắt thành các thanh sắt mỏng hơn, rồi lại nung đỏ, cuối cùng kéo qua những tấm sắt đục lỗ, dùng kìm mà kéo dài ra… Tốn sức, tốn công, và có quá nhiều yếu tố không ổn định.
Phỉ Tiềm dần hiểu vì sao không có những loại áo giáp như khóa giáp hay giáp tấm của châu Âu. Với điều kiện luyện kim hiện tại, thời gian và sức người tiêu tốn là quá lớn. Chỉ riêng công đoạn để làm ra một bộ khóa giáp hay giáp tấm cũng đủ để sản xuất ra hàng chục, thậm chí hàng trăm bộ “tạp giáp” khác.
Vấn đề hiện tại là sức người khó mà đáp ứng. Một thợ thủ công không thể liên tục vung búa trong hơn một canh giờ mà không nghỉ ngơi. Dù có kéo dài thời gian làm việc, sản lượng cũng bị hạn chế. Vậy nên, để tăng sản lượng, cách duy nhất là nhờ vào sức mạnh từ ngoại lực…
Và trong các loại ngoại lực, không gì rẻ và ổn định hơn là sức nước.
Phỉ Tiềm đưa mắt về phía cưa nước mà ông từng cùng các thợ thủ công nhà họ Hoàng chế tạo. Càng ngắm, ông càng thấy nguyên lý hoạt động của nó thực ra cũng tương tự: rèn đập là vận động theo chiều dọc, còn kéo dây là vận động theo chiều ngang, mà tất cả đều có thể biến đổi từ sức nước thông qua cơ học.
Điểm khác biệt duy nhất là rèn đập đòi hỏi lực va đập mạnh mẽ, còn kéo dây đòi hỏi lực ổn định. Những điều này đều có thể đạt được nhờ một thiết bị quen thuộc…
Thời Hán thật là có nhiều công nghệ đen kỳ lạ… xe chỉ nam, xe ghi lý… kết quả là phát minh ra rồi lại để đó chẳng màng đến… ( )