Ngụy Vô Song thấy hắn không phản ứng, bèn hỏi: “Hạ huynh, huynh nghĩ sao?”
Hạ Phàm mỉm cười: “Ta đang nghĩ, cứ suy đoán lung tung, chi bằng hỏi người biết chuyện.”
“Hả? Ai là người biết?”
Hắn giơ tay vẫy tiểu nhị: “Tiểu nhị, nhờ đến đây chút!”
“Đến đây!”
Hạ Phàm nghiêng đầu: “Đó, người biết đến rồi.”
Ngụy Vô Song há hốc, vẻ mặt ngạc nhiên: “Huynh nghĩ… tiểu nhị trà lâu biết nội tình của sĩ khảo ư?”
“Thực ra từ đầu ta đã thấy lạ, tại sao ở cái trấn hẻo lánh giữa sườn núi lại có khách điếm và trà lâu ngay trung tâm?” Hắn đặt chén trà xuống, chậm rãi nói ra điều nghi hoặc trong lòng: “Vừa không gần thành lớn, cũng không nằm trên tuyến đường quan trọng. Nếu không tổ chức sĩ khảo thì ai sẽ chạy đến đây trọ? Trên đời này hẳn là không ai chịu kinh doanh mà chỉ lỗ không lời.”
“Ấy…” Ngụy Vô Song sửng sốt: “Hình như cũng đúng.”
“Trông nền gạch xanh này không giống mới xây mà ít nhất đã mấy mươi năm. Sở dĩ tiệm này có thể tồn tại lâu như vậy hẳn là có nguồn thu nhập khác. Huynh đoán xem, ai bằng lòng bỏ tiền vào chỗ này, bất kể lãi lỗ?”
“Lẽ nào… là Khu mật phủ phụ trách tổ chức sĩ khảo? Nhưng dù là vậy thì liên quan gì đến tiểu nhị?” Ngụy Vô Song vẫn không rõ.
“Khoa khảo chỉ cần một tờ đề và một cây bút. Võ khảo chỉ cần một bãi đất trống và vũ khí. Cả hai đều không giới hạn địa điểm. Sĩ khảo thì sao? Không thể tìm bừa chỗ nào cũng được, nếu vậy thì Khu mật phủ đã chẳng tốn nhiều công sức để triệu tập mọi người đến trấn nhỏ hẻo lánh này.” Hạ Phàm dẫn dắt từng bước: “Nói trên phương diện chi phí hành chính, đến thành thị lớn là lựa chọn tối ưu, đây cũng là lý do tại sao cuộc khảo thí cuối cùng của khoa khảo và võ khảo đều tổ chức ở kinh đô.”
Ngụy Vô Song gian nan lặp lại: “Chi phí… hành chính?”
“Ờm, đừng để ý cách dùng từ, huynh hiểu thành chênh lệch giữa khoản chi và khoản thu để tổ chức một lần khảo thí cũng được.” Hắn giơ hai ngón tay: “Tóm lại, không khó đoán ra hai điều sau. Thứ nhất, trường thi dùng để tổ chức sĩ khảo có đặc thù nhất định, số lượng hẳn không nhiều. Thứ hai, muốn duy trì trường thi như thế này cần nguồn cung tiền liên tục.”
“Tuy Khu mật phủ rất quan trọng nhưng cũng không thể tiêu tiền bừa bãi. Họ có thể duy trì trấn Thanh Sơn trong thời gian dài, ắt hẳn không chỉ vì một lần khảo thí. Nói cách khác, nơi đây đã tổ chức nhiều lần sĩ khảo.” Hạ Phàm kết luận: “Nếu tiểu nhị là người bản địa thì hẳn đã trải qua sự việc giống vậy.”
Ngụy Vô Song nhất thời á khẩu.
Trong lúc đó, tiểu nhị đi đến bàn của hai người: “Hai vị khách quan, không biết có điều gì cần dặn dò?”
Hạ Phàm gọi một phần thịt bò kho, sau đó vờ như lơ đãng đổi chủ đề: “À, ngươi làm ở trà lâu này bao lâu rồi?”
Tiểu nhị nhiệt tình đáp: “Bẩm khách quan, từ nhỏ tôi đã làm việc ở đây, ít nhất là mười mấy năm rồi.”
“Bình thường chắc không đông khách như giờ nhỉ?”
“Vâng, lần bận rộn gần nhất chắc là khoảng năm sáu năm trước.”
Ngụy Vô Song vội hỏi: “Lần đó cũng là mấy người như chúng ta đến đây à?”
Tiểu nhị cười nhưng không đáp ngay lập tức.
Hạ Phàm chợt hiểu, ồ, xem ra đây là người kinh nghiệm đầy mình! Hắn ho khan hai tiếng, chỉ tay vào hông.
Ngụy Vô Song ngẩn ra, chốc sau mới phản ứng lại. Hắn lấy nửa nén bạc trong túi, đặt lên bàn.
Tiểu nhị tươi cười hớn hở, phất nhẹ tay áo nhận bạc: “Chắc là vậy. Tôi nhớ chủ đề họ bàn tán cũng là sĩ khảo với chú pháp gì đó, đương nhiên tôi không rõ cụ thể.”
Ngụy Vô Song kích động: “Vậy ngươi biết nội dung khảo thí của họ không?”
Tiểu nhị lại im lặng.
Lần này đồng hương không cần nhắc nhở đã đẩy nửa nén bạc còn lại vào tay tiểu nhị.
Tiểu nhị vui vẻ nói: “Nói thật, tôi không rõ lắm. Tôi không dám tiếp xúc với mấy thứ họ nói. Họ đa số hoạt động vào đêm khuya, lại vào sau núi. Mọi người tránh còn không kịp, nào dám hỏi cặn kẽ. Nếu nói ai biết thì chắc chỉ có mấy nhà thợ săn, nghe nói lúc đó có người nhờ họ dẫn đường, một đêm kiếm được mười mấy lượng bạc.”
Ngụy Vô Song đang định lấy tiền thì Hạ Phàm ngăn lại: “Được rồi, ngươi đi làm việc đi.”
Tiểu nhị đáp: “Vâng!”
“Đợi đã, ta muốn…”
Hạ Phàm ngắt lời: “Nhìn chung quanh.”
Giờ đây Ngụy Vô Song mới nhận ra có mấy bàn đã chú ý tình hình bên này. Cho dù họ vờ như đang ăn uống nhưng số ánh mắt nhìn qua trở nên nhiều hơn hẳn.
“Tiểu nhị, ở đây ở đây!” Thấy tiểu nhị quay người, một bàn lập tức gọi.
“Đó, không cần tiêu tiền vào việc này.” Hạ Phàm bóc lạc cho vào miệng: “Nếu người khác bằng lòng bỏ tiền thì cứ nhường cơ hội cho họ. Chỉ cần chúng ta xác định được ở đây đã từng tổ chức sĩ khảo, vậy thì hỏi ai cũng như nhau. Huống hồ chúng ta có thể nghĩ đến điều này, chắc chắn Khu mật phủ cũng nghĩ đến. Viên giám khảo không cấm chúng ta giao lưu với người bản địa, ắt hẳn nắm chắc sẽ không lộ đề. Hỏi nhiều ngược lại có khi bất lợi với chúng ta.”
Ngụy Vô Song nhíu mày ngẫm nghĩ, sau đó ngẩng đầu: “Ý huynh là… tiền?”
Hạ Phàm gật đầu: “Mười lượng bạc không ít, nhưng cũng không nhiều.”
Tính theo sức mua lương thực ở thời đại này, một lượng bạc tương đương với năm trăm tệ. Đối với hắn và sư phụ hờ, mười lượng bạc là khoản tiền rất lớn, không cách nào lấy ra được. Nhưng với đệ tử thế gia lại chỉ là con số không đáng kể.
“Tại sao chỉ được đem theo con số này vào trấn, e rằng có liên quan đến khảo thí. Vừa rồi không phải tiểu nhị nói đến rồi à? Nhờ một người bản địa dẫn đường tốn mười mấy lượng bạc, đây là con số mà phải vài người mới góp đủ.”
“Ta… không nghĩ đến điều này.” Một lúc sau, Ngụy Vô Song mới cảm thán: “Không biết tôn sư của huynh đài là vị cao nhân nào?”
“Cao nhân?” Hình ảnh sư phụ hờ xuất hiện trong tâm trí Hạ Phàm. Một đại thúc trung niên gặp ai cũng nói câu, ấn đường người biến đen, ta có thể giúp người tiêu tai giải nạn. “Đến phí sĩ khảo cũng không gom đủ, phải để đệ tử ứng trước, có phải huynh hiểu sai gì về cao nhân rồi không?”
Ngụy Vô Song khâm phục: “Nhưng kiến thức của huynh đài thật sự khiến ta thán phục. Ta lăn lộn trong tiệm từ bé, tự cảm thấy bản thân khá nhạy bén với tiền tài, nhưng vẫn kém xa so với huynh. Nếu không phải do tôn sư thì chắc chắn trước kia huynh từng đi qua rất nhiều nơi.”
Hạ Phàm thật sự muốn cười. Hắn quả thực đã theo sư phụ hờ đến nhiều nơi, nhưng tuyệt không phải đi qua, mà là lang bạt. Cộng thêm kinh nghiệm hai đời thì lại càng nhiều. Dĩ nhiên hắn sẽ không nói điều này với đối phương.
Ngoài ra, điều khiến Hạ Phàm thấy lạ không chỉ trà lâu, mà còn là phản ứng của người bản địa. Dân cư của trấn Thanh Sơn có khoảng một hai trăm người, trong khi thí sinh khoảng hơn bốn trăm người. Nếu như một đoàn người ngoài đột nhiên kéo vào chốn khép kín này, tất nhiên sẽ đem lại xung đột và phòng bị. Nhưng hắn dạo quanh một vòng phát hiện người bản địa cư xử tự nhiên đến lạ, thậm chí còn chào hỏi thí sinh, cứ như đã quen với chuyện vậy.
“Nhà huynh mở tiệm à?”
Ngụy Vô Song đáp: “Tiệm lương thực Đại Uyển là tiệm của nhà ta.”
“Khụ.” Hạ Phàm suýt nữa bị sặc. Đây chẳng phải là tiệm lương thực đắt khách nhất huyện Phượng Hoa à? Hơn nữa, cửa tiệm còn thỉnh thoảng phát cháo cứu tế, sư phụ thường đến để kiếm hời. Có thể mở tiệm lương thực ở Khải Quốc, dù không phải thế gia thì cũng không phải thương gia nhỏ bình thường.
“Huynh đài thấy rồi?”
Không thấy mới là lạ, đó là vị trí trung tâm huyện mà. Hạ Phàm lườm Ngụy Vô Song, thầm liệt đối phương vào quân tư bản: “Ừ.”
“Hì hì, đợi sĩ khảo kết thúc, ta sẽ mời Hạ huynh ăn một bữa ngon lành ở huyện Phượng Hoa.”
“Không, có bữa này là đủ rồi.” Hạ Phàm đứng dậy, chắp tay: “Đa tạ.”
“… Đợi, đợi đã.” Ngụy Vô Song nhất thời không phản ứng kịp. “Huynh không muốn…”
“Hợp tác với huynh?” Hắn lắc đầu: “Thực ra huynh nói không sai, đệ tử các phái và thế gia có ưu thế lớn hơn, dù thông qua sĩ khảo cũng không được hạng cao. Vì vậy, lựa chọn tốt nhất của huynh là cố ý thất bại. Vào hay không vào Khu mật phủ chẳng ảnh hưởng gì nhiều với huynh, khảo thí không trúng tuyển, cha huynh chắc cũng không nói gì được. Về huyện Phượng Hoa, huynh vẫn là nhị thiếu gia trong nhà, cả đời không lo ăn mặc, ít nhất tốt hơn nhiều so với việc bị điều đi thành trấn nào đó rồi chết bởi tà dị.”
“Mau về nhà đi.” Hạ Phàm nói đến đây thì khua tay: “Làm thiếu gia yên ổn vô vị không thích sao?” Hắn nhìn ra Ngụy Vô Song không có quyết tâm phải thông qua sĩ khảo.
Mặt Ngụy Vô Song đỏ bừng. Có giây phút Hạ Phàm cho rằng đối phương thẹn quá hóa giận muốn mắng người, nhưng cuối cùng vẫn nhẫn nhịn.
Hiếm thấy thật, Hạ Phàm thầm khen. Thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi chú trọng mặt mũi, gì cũng mất được, duy chỉ mặt mũi là không được, nói trắng ra là làm ra vẻ, thích để tâm chuyện vụn vặt. Ấy thế mà đối phương có thể nhìn thẳng vào nội tâm trong lúc không cam lòng.
Nửa khắc sau, Ngụy Vô Song cất lời: “Huynh thì sao? Huynh cũng không lấy được thứ hạng cao giống ta, lẽ nào huynh không sợ à?”
“Ai nói, ta để ý mạng mình lắm.”
“Thế tại sao…”
Hạ Phàm khẽ than: “Chắc là bởi vì vô tri.”
“Vô tri?” Ngụy Vô Song tỏ vẻ ngạc nhiên. Hắn thật sự không cách nào liên tưởng người trước mặt với hai chữ vô tri.
Bởi vì không biết gì về thế giới mới này nên muốn tìm hiểu sâu hơn. Hạ Phàm hiểu, cảm giác khó chịu trong lòng đến từ sự đối lập giữa thường thức và hiện thực, từ phản hồi với hoàn cảnh lạ. Nếu đời này là một người bình thường thì cũng thôi, nhưng hắn lại có thiên phú.
Món nợ của sư phụ chỉ là ngòi nổ, dù không có chuyện này thì sớm muộn gì hắn cũng sẽ bước chân khỏi đó. Khu mật phủ quản lý tất cả dị tượng dĩ nhiên là chiếc bệ lý tưởng. Huống chi đối với người tiếp thu giáo dục hiện đại, học hỏi, giải đáp nghi hoặc đã thành bản năng ngấm sâu trong linh hồn.
Nếu nói những điều này ra, có lẽ không ai trên thế giới này có thể hiểu được.
Hắn khoát tay, quay người đi ra ngoài.