Chương 3: Phần 3

Annabeth kể cho cô bé những gì có thể.

Thường thì cô không dễ dàng tin tưởng ai, nhưng cô rất có kinh nghiệm nhìn người. Cô thích Sadie ngay lập tức: Bốt chiến đấu, tóc highlight tím, thái độ… Theo kinh nghiệm của Annabeth, những người không đáng tin thường không trước mặt bạn mà muốn đấm vào mặt ai đó. Họ chắc chắn chẳng giúp một người lạ đang bất tỉnh và đưa họ thuốc.

Annabeth miêu tả Trại Con lai. Cô điểm lại vài cuộc phiêu lưu chiến đấu với các vị thần, khổng lồ và Titan của cô. Cô giải thích vì sao cô gặp con quái hai đầu sư tử-sói-cua tại ga West Fourth Street và quyết định theo nó.

“Vì thế chị ở đây.” Annabeth kết thúc.

Miệng của Sadie rung lên. Trông cô bé như thể cô có thể bắt đầu la hét hay khóc lên. Thay vào đó, cô phá lên cười.

Annabeth cau mày. “Chị đã nói điều gì khôi hài à?”

“Không, không…” Sadie khịt mũi. “À... thì nó hơi khôi hài. Ý em là, chúng ta đang ngồi trên bờ biển và nói chuyện về các vị thần Hy Lạp. Và một cái trại dành cho á thần, và ”

“Tất cả đều là sự thật!”

“Vâng, em tin chị. Nó chỉ là quá buồn cười không phải không thật. Chỉ là mỗi lần khi thế giới của em trở nên lạ lùng hơn, em lại nghĩ : Được thôi. Chúng tôi bây giờ đang là những người kỳ quặc nhất. Ít nhất tôi biết giới hạn của nó. Đầu tiên, em phát hiện ra anh trai và em là hậu duệ của pharaoh và có sức mạnh pháp thuật. Được thôi. Không thành vấn đề. Sau đó em biết được người cha đã mất của em hợp nhất với Osiris và trở thành chúa tể của cái chết. Tuyệt vời! Tại sao không? Sau đó chú em tiếp quản Nhà sự sống và quản lý hàng trăm pháp sư trên thế giới. Sau đó bạn trai em trở thành một cậu bé pháp sư lai/ bất tử thần của đám tang.

Và tất cả những thứ em đang nghĩ là, Dĩ nhiên! Hãy bình tĩnh và cứ tiếp tục! Mình đã được xếp đặt như vậy! Và sau đó chị đến vào một ngày thứ năm tình cờ, la-di-da, và nói rằng, Ồ, nhân tiện, các vị thần Ai Cập chỉ là một phần nhỏ của vũ trụ ngớ ngẩn. Chúng ta còn có các vị thần Hy Lạp để lo lắng nữa! Hoan hô!”

Annabeth không thể theo kịp những gì Sadie vừa nói – một người bạn trai là thần bất tử? – nhưng cô phải thừa nhận rằng cười đùa về nó tốt hơn so với xoay quanh một quả bóng và khóc lóc.

“Được rồi,” cô thừa nhận. “Nó có vẻ là hơi điên rồ, nhưng chị đoán nó là sự thật. Thầy giáo của chị Chiron… luôn bảo chị rằng các vị thần cổ bất tử bởi vì họ là một phần của nền văn minh. Nếu các thần Hy Lạp có thể tồn tại hàng thiên niên kỉ, vậy tại sao các thần Ai Cập lại không thể nào?”

“Càng đông càng vui,” Sadie đồng ý. “Nhưng mà, ờ, thế còn chú chó nhỏ này thì sao nhỉ?” Cô bé nhặt một cái vỏ sò nhỏ và ném lên đầu con quái Labrador đang gầm gừ cáu bẳn. “Một phút trước tụi em nghĩ, nó đang ngồi trên bàn trong thư viện của tụi em – một vật vô hại, một cục đá dễ vỡ của một bức tượng nào đó. Một phút sau, nó trở thành vật thể sống và phá hủy nhà Brooklyn. Nó xé tan bảo vệ phép thuật của tụi em, lặn qua những con chim cánh cụt của Felix và giũ sạch những câu thần chú của em như thể chẳng có gì.”

“Chim cánh cụt?” Annabeth lắc đầu. “Không. Quên nó đi.”

Cô quan sát con quái vật khi nó khó chịu với sợi xích của mình. Những chữ cái Hy Lạp và chữ tượng hình đỏ xoáy xung quanh nó cứ như là đang cố gắng để tạo thành những ký tự mới – một tin nhắn Annabeth hầu như có thể đọc được.

“Những sợi dây đó sẽ giữ được chứ?” cô hỏi. “Chúng trông có vẻ đang yếu dần.”

“Đừng lo,” Sadie cam đoan với cô. “Những sợi dây đó từng giữ các vị thần trước đây. Và nhớ là, không phải là những vị thần nhỏ. Những vị thần cực mạnh cơ.”

“Ừm, được rồi. Vậy em nói con chó là một phần của một bức tượng. Có ý kiến là bức tượng nào không?”

“Không ạ.” Sadie nhún vai. “Cleo, thủ thư của tụi em, đang tìm kiếm cho câu hỏi đó khi Fido[1] ở đây thức giấc.”

“Nhưng nó phải được liên kết với con quái vật khác – với đầu sói và sư tử. Chị ấn tượng vì chúng cũng vừa hồi sinh. Chúng kết nối với nhau và không quen làm việc như một đội. Chúng đã lên con tàu kia và tìm kiếm thứ gì đó – có lẽ là con chó này.”

Sadie nghịch mặt dây chuyền bạc của mình. “Một con quái vật ba đầu: sư tử, sói và chó. Tất cả gắn với… cái vật hình nón kia là gì nhỉ? Một cái mai? Một ngọn đuốc?”

Đầu của Annabeth bắt đầu hoạt động trở lại. Một ngọn đuốc.

Cô lướt nhanh qua từng mảng trí nhớ - có lẽ là một bức tranh cô từng thấy qua trong một cuốn sách. Cô không cho là cái nón của con quái vật có thể là thứ gì đó cô có thể cầm, cái gì đó thuộc về một bàn tay lớn. Nhưng không phải là một ngọn đuốc…

“Nó là một cây quyền trượng,” cô nhận ra. “Chị không nhớ là vị thần nào cầm nó, nhưng quyền trượng ba đầu là biểu tượng của ông ta. Ông ta là… thần Hy Lạp, chị nghĩ, nhưng ông ta cũng có thể đến từ đâu đó ở Ai Cập -”

“Alexandria,” Sadie đoán.

Annabeth nhìn chằm chằm cô bé. “Sao em biết?”

“Ồ, cứ cho là em không phải là người mê lịch sử như anh trai, nhưng em đã từng ở Alexandria. Em nhớ điều gì đó về việc nó trở thành thủ phủ khi người Hy Lạp thống trị Ai Cập. Alexander đại đế phải không?”

Annabeth gật đầu. “Đúng vậy. Alexander chinh phục Ai Cập, và sau khi ông ta chết, tổng quản Ptolemy thay thế ông. Ông ta muốn người Ai Cập thừa nhận mình là pharaoh của họ, vì thế ông kết hợp thần Ai Cập và thần Hy Lạp với nhau và tạo thành những vị thần mới.”

“Thật lộn xộn,” Sadie nói. “Em thích các vị thần của mình không kết hợp hơn.”

“Nhưng có một vị thần đặc biệt… Chị không nhớ được tên ông ta. Cái sinh vật ba đầu đó ở trên đỉnh quyền trượng của ông ta… ”

“Cái quyền trượng khá lớn,” Sadie lưu ý. “Em không hứng thú gặp gã, người có thể mang nó đi loanh quanh.”

“Ồ, các vị thần.” Annabeth đột nhiên lên tiếng. “Ra là vậy! Cây quyền trượng không phải đang cố gắng kết hợp lại - nó đang cố tìm chủ nhân của mình.”

Sadie cáu kỉnh. “Em không thích điều đó tí nào. Chúng ta cần phải chắc chắn - ”

Con quái vật tru lên. Những sợi dây pháp thuật nổ như lựu đạn, bắn tung tóe bờ biển với những mảnh vỡ màu vàng.

Luồng gió đẩy Sadie ngã xuống cồn cát như cây cỏ lăn.

Annabeth đóng sầm chiếc xe tải kem. Tay chân cô trở nên nặng như chì. Tất cả không khí bị đẩy ra khỏi lồng ngực của cô.

Nếu sinh vật đó muốn giết cô, nó có thể dễ dàng làm điều đó.

Thay vào đó, nó nhảy vọt vào phía trong cồn cát, biến mất sau đám cỏ dại.

Annabeth theo bản năng túm lấy một vũ khí gì đó. Những ngón tay của cô dịch lại gần cái đũa cong của Sadie. Đau đớn làm cô thở hổn hển. Cái ngà voi cháy như đá khô. Annabeth cố gắng bỏ xuống nhưng tay cô không nghe lời. Khi cô nhìn nó, cây đũa bốc hơi, thay đổi hình dạng đến khi vết cháy lắng đi và Annabeth cầm một con dao găm bằng đồng Celestial – giống như thứ mà cô từng mang trước đây.

Cô nhìn chằm chằm lưỡi dao. Sao đó cô nghe thấy tiếng rên rỉ từ cồn cát gần đó.

“Sadie!” Annabeth bước lảo đảo.

Trước khi cô tới được chỗ cô bé, Sadie đang ngồi dậy, khạc nhổ cát trong miệng ra. Một ít tảo biển dính trên tóc cô bé, và cái ba lô thì được nhét trong một trong hai chiếc bốt của cô, nhưng cô trông có vẻ giận dữ hơn là bị thương.

“Fido ngu ngốc!” Cô gầm lên. “Ông ta sẽ không có bánh quy chó!” Cô cau có nhìn con dao của Annabeth. “Chị lấy nó ở đâu vậy?”

“Um… nó là đũa phép của em,” Annabeth nói. “Chị cầm nó lên… và chị không biết. Nó vừa biến thành loại dao găm chị thường dùng.”

“Hả. Ồ, những vật ma thuật có ý thức riêng. Hãy giữ lấy nó. Ở nhà em còn nhiều lắm. Bây giờ, Fido đã đi đường nào rồi?”

“Đằng đó.” Annabeth chỉ với con dao găm mới của mình.

Sadie săm soi khu vực nội địa. Mắt cô bé trợn lên. “Ồ... đúng. Hướng về cơn bão mới.”

Annabeth hướng theo ánh nhìn của cô bé. Bỏ qua đường ray tàu điện, cô chẳng thấy gì ngoài căn hộ chung cư bỏ hoang, hàng rào sập xệ và trơ trọi chống vào bầu trời hoàng hôn. “Cơn bão nào?”

“Chị không thấy nó ư?” Sadie hỏi. “Đợi chút.” Cô bé tháo cái ba lô trong chiếc bốt ra, và lục lọi trong đám dụng cụ của mình. Cô lấy ra một lọ gốm khác, cái này ngắn, dày và lớn như một lọ kem dưỡng da. Cô bé mở nắp ra và múc ra một ít chất nhờn màu hồng. “Để em bôi cái này lên mí mắt của chị.”

“Wow, nghe như một câu trả lời tự động không.”

“Đừng lo. Nó hoàn toàn vô hại… ừm, đối với pháp sư. Có lẽ đối với á thần nữa.”

Annabeth không chắc một lần nữa, nhưng cô vẫn nhắm mắt lại. Sadie bôi chất dính lên, nó ngứa và ấm như chà xát tinh dầu bạc.

“Được rồi,” Sadie nói. “Chị có thể mở mắt ra rồi.”

Annabeth mở mắt ra và há hốc.

Thế giới bị cuốn đi trong màu sắc. Mặt đất trở nên mờ mờ - những lớp sền sệt di chuyển xuống màu tối hơn ở dưới. Không khí gợn sóng với những lớp màn mờ, mỗi một rung động dù chỉ nhẹ thôi, như thể là hàng loạt video chất lượng cao chồng chất lên nhau. Chữ tượng hình và chữ cái Hy Lạp bay xung quanh cô, nóng lên và nổ tung khi chúng va chạm vào nhau. Annabeth cảm thấy như mình đang nhìn thế giới ở mức độ nguyên tử.

Những thứ vô hình dần được lộ ra, vẽ nên với ánh sáng của ma thuật.

“Em - em luôn thấy cái này hả?”

Sadie khịt mũi. “Ôi các vị thần Ai Cập, không! Nó sẽ làm em điên lên mất. Em phải tập trung để nhìn thấy Duat. Đó là những gì chị đang làm – nhìn vào khía cạnh ma thuật của thế giới.”

“Chị…” Annabeth ấp úng.

Annabeth thường là một cô gái tự tin. Bất cứ khi nào cô giao tiếp với một người bình thường, cô thường mang vẻ hoàn toàn tự mãn rằng cô sở hữu những kiến thức bí mật. Cô hiểu biết về thế giới của các vị thần và những con quái vật mà gười thường thì chẳng biết. Thậm chí ngay cả với những á thần khác, Annabeth hầu như luôn luôn là người dạn dày kinh nghiệm nhất. Cô đã thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn hầu hết các anh hùng có thể mơ tưởng đến, và cô vẫn sống sót.

Còn bây giờ, việc nhìn vào sự thay đổi của bức màn màu sắc, Annabeth có cảm giác như trở lại là một đứa bé sáu tuổi, và đang học về thế giới của cô thực sự tồi tệ và nguy hiểm như thế nào.

Cô ngồi xuống bãi cát một cách khó khăn. “Chị chẳng biết phải nghĩ gì nữa.”

“Đừng suy nghĩ,” Sadie khuyên. “Hãy hít thở. Mắt chị sẽ tự điều tiết. Nó khá giống như đi bơi. Nếu chỉ để cơ thể mình làm việc, bản năng sẽ mách bảo cho chị biết cần phải làm gì. Hoảng sợ, và chị sẽ chết đuối.”

Annabeth cố gắng thư giãn.

Cô bắt đầu nhận thức được những họa tiết trong không khí: những dòng chảy trôi nổi giữa các tầng thực tại, những dòng hơi pháp thuật chảy ra từ những chiếc xe và tòa nhà. Khu vực con tàu đổ nát tỏa ánh sáng xanh. Sadie có hào quang màu vàng với một màn sương lông vũ tỏa ra sau cô bé trông như đôi cánh.

Nơi mà con quái vật từng nằm, mặt đất cháy âm ỉ như than nóng đỏ. Những tua đỏ thẫm lan ra từ chỗ đó, theo hướng mà con quái vật đã trốn thoát.

Annabeth tập trung vào những tòa chung cư bỏ hoang đằng xa, và nhịp tim cô tăng gấp đôi. Tòa nhà tỏa ánh sáng đỏ từ bên trong - ánh sáng xuyên qua ván cửa sổ, bắn xuyên qua những mảnh vỡ của những bức tường đổ nát. Những đám mây đen lảng vảng phía trên, và càng nhiều xúc tua năng lượng màu đỏ hướng về phía tòa từ mọi phía như thể bị kéo vào một cơn lốc xoáy.

Cảnh tượng đó gợi nhắc Annabeth về Charybdis, con quái vật hút xoáy nước mà cô từng chạm trán tại Biển quái vật. Nó là một ký ức không mấy vui vẻ.

“Tòa chung cư đó,” cô nói. “Nó thu hút ánh sáng đỏ từ khắp mọi nơi.”

“Chính xác,” Sadie nói. “Trong phép thuật Ai Cập, màu đỏ tượng trưng cho điều xấu. Nó có nghĩa là ác quỷ và hỗn loạn.”

“Vậy đó là nơi con quái vật chó đang đến,” Annabeth đoán. “Để hợp nhất với những phần khác của cây quyền trượng -”

“Và để tìm chủ của nó, em cá là vậy.”

Annabeth biết là cô nên đứng dậy. Họ phải nhanh lên. Nhưng nhìn vào những lớp xoáy ma thuật, cô sợ phải di chuyển.

Cô dành cả đời cho việc nghiên cứu Màn sương – ranh giới ma thuật chia tách thế giới người phàm với thế giới của những con quái vật và các vị thần Hy Lạp. Nhưng cô chưa bao giờ nghĩ đến Màn sương thực sự là một tấm rèm.

Sadie đã gọi nó là gì - Duat?

Annabeth tự hỏi rằng phải chăng Màn sương và Duat có liên quan, hay thậm chí là cùng một thứ. Số lớp màn cô có thể thấy thật quá sức tưởng tượng – giống như một tấm thảm cuộn lại hàng trăm lần.

Cô không tin tưởng bản thân có thể đứng lên được. Hoảng sợ, và chị sẽ chết đuối.

Sadie chìa tay ra. Đôi mắt cô bé đầy cảm thông. “Xem này, em biết là nó hơi nhiều, nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Chị vẫn là á thần dày dạn, mang ba lô như chị vẫn luôn như thế. Và bây giờ chị còn có một con dao găm đáng yêu nữa.”

Annabeth cảm giác như máu dâng lên mặt mình. Thường thì cô sẽ là người đưa ra lời động viên.

“Đúng. Đúng, đương nhiên.” Cô nắm lấy tay Sadie. “Cùng đi tìm vị thần thôi.”

[1]Fido: chỉ con quái vật chó.