Sau đó cô bé tóc vàng đánh mạnh lên mũi con quái. Cây gậy của cô lóe lên một tia sáng vàng, và con chó bị đẩy mạnh ra phía sau - xuyên qua cánh cửa sổ vỡ về phía cuối chiếc xe điện ngầm của Annabeth.
Cô bé tóc vàng đuổi theo nó. Cô nhảy qua cánh cửa đang đóng lại khi tàu rời ga.
Cùng một lúc tất cả họ đều đứng đó - hai cô gái và hai con quái vật.
Annabeth quan sát cô gái phía bên kia chiếc xe, thử đánh giá mức độ nguy hiểm của cô ấy.
Cô bé mặc quần lanh trắng với áo blouse, giống như đồng phục karate. Đôi bốt của cô trông như chúng có thể gây sát thương trong một trận chiến. Vai trái cô đeo một túi nilon màu xanh với một thanh ngà voi cong – một cái boomerang[1]? – treo qua dây đeo. Nhưng vũ khí lợi hại nhất của cô bé là cây gậy gỗ màu trắng - dài khoảng mét rưỡi, đầu tạc hình một con đại bàng, cả cây gậy tỏa sáng như đồng Celestial.
Annabeth bắt gặp ánh mắt của cô bé, và một cảm giác ngờ ngợ làm cô bối rối.
Cô bé Karate chắc chỉ mới mười ba tuổi. Đôi mắt xanh nổi bật, có vẻ là một đứa con của thần Zeus. Mái tóc dài vàng hoe đan xen với vài sợi tím, trông rất giống một đứa con gái của Athena - sẵn sàng chiến đấu, nhanh nhẹn và can đảm. Annabeth có cảm giác như cô đang gặp lại bản thân mình bốn năm về trước, trong khoảng thời gian lần đầu tiên cô gặp Percy.
Sau đó Cô bé Karate lên tiếng và phá vỡ ảo giác.
“Tốt.” Cô thổi mấy sợi tóc tím trên mặt mình. “Bởi vì ngày của ta chưa đủ điên khùng mà.”
Giọng Anh, Annabeth nghĩ thầm. Nhưng chô không có thời gian để suy nghĩ về việc đó.
Con chó-nòng nọc và con sư tử-sói-cua đang đứng giữa xe, cách khoảng năm mét, nhìn chằm chằm nhau một cách ngạc nhiên. Khi chúng vượt qua nỗi kinh ngạc. Con chó tru lên – một tiếng kêu hân hoan như thế Ta tìm được mi rồi! Và con sư tử-sói-cua xông tới chỗ nó.
“Ngăn chúng lại!” Annabeth hét lên.
Cô nhảy lên lưng con quái cua, và chân trước của nó sụp xuống vì sức nặng quá khổ.
Cô bé kia hét lên điều gì đó như là: “Mar!”
Một loạt các chữ tượng hình cháy sáng trong không trung:
Con chó chần chừ lùi lại, nôn ọe như là vừa nuốt phải một trái bóng bi-a.
Annabeth cố gắng để đè con quái cua xuống, nhưng con quái này nặng gấp đôi cô. Nó đẩy chân trước, cố ném cô đi. Cả hai cái đầu quay lại định ngoạm lấy mặt cô.
May mắn thay cô đã đóng yên cho rất nhiều con pegasus[2] hoang tại Trại Con lai. Cô cố gắng giữ thăng bằng khi đang tháo ba lô xuống. Cô đập mười kí sách kiến trúc vào đầu con sư tử, sau đó quấn dây trên vai cô qua bụng con sói và kéo mạnh một chút.
Trong khi đó, con tàu xông ra dưới ánh nắng mặt trời. Nó chạy dọc theo đường ray quận Queens, không khí trong lành ùa vào qua những khung cửa vỡ và lấp lánh những mảnh thủy tinh nhảy múa trên ghế.
Phía xa tầm mắt của cô, Annabeth thấy con chó đen đã thoát khỏi tình trạng nôn mửa. Nó lao vào cô bé Karate, cô ném cái boomerang ngà voi của mình đi và thổi bay con quái vật với một luồng sáng flash màu vàng khác.
Annabeth ước gì mình có thể triệu hồi những luồng sáng vàng đó. Tất cả những gì cô có là một cái ba lô ngớ ngẩn. Cô làm hết sức để trấn áp con quái cua, nhưng con quái vật dường như trở nên mạnh dần lên từng giây trong khi khi ánh sáng đỏ kia làm Annabeth yếu đi. Đầu cô như nhồi đầy cotton. Dạ dày xoắn lại.
Cô mất khái niệm thời gian khi vật lộn sinh vật đó. Cô chỉ biết là cô không thể để nó kết hợp với cái đầu chó kia. Nếu con quái vật hoàn thiện thành ba đầu, dù là gì đi chăng nữa, sẽ chẳng thể nào ngăn nó lại.
Con chó lao vào cô bé Karate một lần nữa. Lần này nó đánh cô bé ngã xuống. Annabeth, bị phân tâm, trượt khỏi con quái vật cua, và nó ném cô xuống - đầu cô va vào rìa của một cái ghế.
Tai cô ù lên khi con quái vật gầm lên trong chiến thắng. Một làn năng lượng nóng đỏ lan tỏa trong con tàu. Nó nghiêng qua một bên, và Annabeth mất trọng lượng.
“Lại đây,” một giọng nữ vang lên. “Chúng ta phải đi thôi”.
Annabeth mở mắt ra. Thế giới đang xoay vòng. Xa xa còi báo động kêu ầm ĩ.
Cô đang nằm dài trên đám cỏ dại gai góc. Cô bé tóc vàng trên tàu cúi xuống và kéo mạnh cánh tay cô.
Annabeth cố gắng ngồi xuống. Cô có cảm giác như ai đó đang đóng những cây đinh nóng vào ngực cô. Khi tầm nhìn trở nên rõ ràng, cô nhận ra mình may mắn sống sót. Cách đó khoảng năm mươi mét, tàu điện ngầm đã trượt khỏi đường ray. Những chiếc xe vỡ nát nằm dài, khói bốc ngùn ngụt từ đống đổ nát làm Annabeth nghĩ đến xác của một con drakon[3] ( không may là cô đã gặp vài con rồi).
Cô nhận thấy không có người phàm nào bị thương. Hi vọng là tất cả họ đã rời khỏi tàu tại ga Fulton Street. Nhưng vẫn – thật là một thảm họa.
Annabeth nhận ra nơi cô đang đứng: bờ biển Rockaway. Vài trăm mét về bên trái, những mảnh đất trống và dãy hàng rào uốn cong nhường chỗ cho một bãi cát vàng rải rác dầu và rác thải. Biển động dưới bầu trời đầy mây. Bên phải Annabeth, bên kia đường ray xe lửa, sừng sững một dãy các căn hộ cao tầng xiêu vẹo khiến ta nghĩ rằng chúng là những tòa nhà được tân trang từ những hộp tủ lạnh cũ.
“Yoo-hoo.” Cô bé Karate lắc vai. “ Em biết là có lẽ chị đang shock, nhưng chúng ta cần phải đi thôi. Em không hứng thú được cảnh sát hỏi thăm về thứ kèm theo này.”
Cô bé chuồn qua bên trái cô. Đằng sau cô trên những mảnh giăm nhựa đường, con quái Labrador[4] đen rơi xuống như một con cá rơi xuống nước, miệng và chân nó bị sợi dây phát ra ánh sáng vàng trói lại.
Annabeth nhìn chằm chằm cô bé. Quanh cổ cô bé lấp lánh một sợi dây với một cái bùa hộ mệnh bạc - một ký tự giống như một cây thánh giá Ai cập với một người đàn ông bánh quy gừng[5].
Cạnh cô bé là cây gậy và cái boomerang ngà voi – cả hai đều được khắc chữ tượng hình và hình ảnh những con quái vật lạ, rất không-Hy Lạp.
“Em là ai?” Annabeth hỏi.
Cô bé khẽ nhếch mép. “Thường thì em không cho người lạ biết tên của mình. Những lỗ hổng ma thuật và những thứ như vậy. Nhưng em phải tôn trọng người chiến đấu với con quái vật hai đầu chỉ với một cái ba lô.” Cô bé chìa tay ra. “Sadie Kane.”
“Annabeth Chase.”
Họ bắt tay.
“Rất vui khi gặp chị, Annabeth,” Sadie nói. “Bây giờ, chúng ta nên đưa chú chó nhỏ này đi dạo nhỉ?”
Họ rời đi vừa kịp lúc.
Vài phút sau, xe cứu hộ đã tập trung quanh con tàu đổ nát, và một đám đông tụ tập gần khu căn hộ.
Annabeth cảm thấy buồn nôn hơn bao giờ hết. Những đốm đỏ nhảy múa trước mắt cô, nhưng cô giúp Sadie kéo con quái vào cồn cát bằng cách nắm đuôi nó. Sadie có vẻ thích thú với việc kéo lê con quái vật qua càng nhiều sỏi đá và chai lọ vỡ cô có thể tìm thấy.
Con quái gầm gừ và quằn quại. Hào quang đỏ của nó tỏa sáng mạnh mẽ hơn, trong khi ánh vàng của sợi dây mờ dần.
Thường thì Annabeth thích đi bộ trên bờ biển. Biển cả làm cô nhớ đến Percy. Nhưng hôm nay cô đói lả và kiệt sức. Giờ phút này, ba lô của cô trở nên nặng trĩu, và cái sinh vật kia khiến cô muốn ném nó đi.
Bờ biển Rockaway là một nơi ảm đạm. Một cơn bão lớn đã đổ bộ vào đây hơn một năm về trước và những thiệt hại của nó vẫn còn rõ ràng. Một vài căn hộ chung cư ở xa bị ăn mòn tới phần khung sườn, những tấm ván che cửa sổ và gạch trên tường phủ đầy chữ graffiti. Những mẩu gỗ mục nát, khối nhựa đường và thanh kim loại cong rải rác trên bờ biển. Các giá treo của một cầu tàu bị phá hủy nhô lên khỏi mặt nước. Bản thân sóng biển thì bực bội đánh vào bờ như muốn nói rằng, đừng lờ tôi như thế. Tôi luôn có trể trở lại và hoàn thành công việc đấy.
Cuối cùng họ đến chỗ một cái xe tải chở kem vô chủ bị lấp một nửa trong cồn cát. Được sơn một mặt, những hình ảnh mờ của những món ngon trước đây làm bụng Annabeth sôi lên biểu tình.
“Dừng ở đây thôi,” cô thì thầm.
Cô thả đuôi con quái vật xuống và lảo đảo bước về phía cái xe tải, sau đó dựa lưng vào cửa hành khách và trượt xuống.
Sadie ngồi xếp bằng, đối mặt với cô. Cô bé lục khắp cái ba lô của cô và lấy ra một lọ gốm có nắp.
“Đây.” Cô đưa cho Annabeth. “Uống đi. Nó ngon lắm.”
Annabeth cẩn thận xem xét cái lọ. Nó có vẻ nặng và ấm giống như một ly cà phê nóng. “Ừ… thứ này sẽ không phóng ra bất kì tia sáng vàng nào nổ bùm vào mặt chị chứ?”
Sadie khịt mũi. “ Ngốc, nó chỉ là thuốc trị thương thôi. Một người bạn của em, Jaz, pha chế loại thuốc tốt nhất trên thế giới đó.”
Annabeth vẫn còn chần chừ. Cô đã thử nhiều loại thuốc trước đây, chúng được những đứa con của Hecate pha chế. Thường thì chúng có vị như súp váng ao, nhưng ít nhất là chúng có tác dụng với á thần. Dù cho là gì trong cái lọ này, nó chắc chắn không phải là loại đó.
“Chị không chắc là mình nên thử,” cô nói. “Chị… không giống em”
“Chẳng ai giống em cả,” Sadie đồng tình. “Sự tuyệt vời của em là duy nhất. Nhưng nếu ý chị là chị không phải là pháp sư, ồ, em hiểu. Thường thì tụi em chiến đấu với quyền trượng và đũa phép.” Cô bé vỗ nhẹ vào cây gậy trắng được chạm khắc và boomerang ngà voi cạnh mình. “Nhưng mà em nghĩ là thuốc của em sẽ có hiệu quả với chị. Chị đã chiến đấu với một con quái vật. Chị sống sót cạnh cái xác tàu. Chị không thể là người bình thường”
Annabeth cười gượng. Cô nhận thấy sự tinh nghịch của cô bé này khá là mới mẻ. “Không, chị không hẳn là bình thường. Chị là một á thần.”
“Ah.” Sadie gõ nhẹ ngón tay trên cây đũa cong của mình. “Xin lỗi, khái niệm đó khá mới với em. Một quỷ-thần?”
“Á thần,” Annabeth sửa lại. “Nửa thần thánh, nửa người phàm.”
“Oh, được rồi.” Sadie thốt ra, rõ ràng đã bớt căng thẳng. “ Em từng chứa Isis trong đầu vài lần. Ai là người bạn đặc biệt của chị?”
“Của chị - không. Chị không chứa ai cả. Mẹ chị là nữ thần Hy Lạp, Athena.”
“Mẹ của chị.”
“Đúng vậy.”
“Một nữ thần. Một nữ thần Hy Lạp.”
“Ừm.” Annabeth nhận thấy người bạn mới của cô trở nên tái nhợt. “ Chị đoán là em không có khái niệm đó, um, em đến từ đâu vậy?”
Luân Đôn. Hay Los Angeles nhỉ. Em không nhớ là từng gặp một á thần Hy Lạp tại bất cứ nơi nào trong số đó. Tuy nhiên, khi một người giải quyết những cái khinh khí cầu ma thuật, nữ thần mèo, và người lùn ở Speedos, người đó không thể dễ dàng bị làm ngạc nhiên”.
Annabeth không chắc cô nghe đúng. “Người lùn ở Speedos?”
“Mmm.” Sadie liếc nhìn con quái vật, vẫn đang quằn quại trong sợi xích vàng của nó. “Nhưng đây là một khó khăn. Vài tháng trước mẹ em đưa cho em một lời cảnh báo. Bà ấy nói cho em biết về những vị thần khác và những loại pháp thuật khác.”
Cái lọ trong tay Annabeth trở nên ấm hơn. “Những vị thần khác. Ý em là Isis. Bà ấy là nữ thần pháp thuật của Ai Cập. Nhưng… bà ấy không phải là mẹ em?”
“Không,” Sadie trả lời. “Ý em là, có. Isis là nữ thần pháp thuật của Ai Cập. Nhưng bà ấy không phải là mẹ em. Mẹ em chết rồi. Ừm…bà là một pháp sư của Nhà sự sống[6], như em, nhưng sau đó bà chết, vì vậy-”
“Đợi một chút.” Đầu Annabeth đập mạnh đau, cô nhận ra chẳng gì có thể làm nó tệ hơn nữa. Cô mở nắp lọ và uống.
Cô mong chờ vị súp váng xanh, nhưng nó thật ra có vị như nước táo ấm. Ngay lập tức, tầm nhìn của cô rõ tàng. Dạ dày ổn định.
“Wow,” Cô lên tiếng.
“Nói với chị rồi mà.” Sadie cười tự mãn. “Jaz giống như một nhà bào chế thuốc.”
“Vậy em đã nói… Nhà sự sống. Phép thuật Ai Cập. Em giống như cậu bé bạn trai chị từng gặp.”
Nụ cười của Sadie mờ dần. “Bạn trai chị… đã gặp ai đó giống em? Một pháp sư khác?”
Vài mét đằng kia, con quái vật gầm gừ và vùng vẫy. Sadie không hề bày tỏ quan tâm gì, nhưng Annabeth lo lắng việc sợi dây ma thuật đang phát sáng một cách yếu ớt.
“Cách đây vài tuần,” Annabeth kể. “Percy kể với chị một câu chuyện điên rồ về việc gặp một cậu bé gần vịnh Moriches. Hình như cậu bé này sử dụng chữ tượng hình để đọc thần chú. Cậu ta giúp Percy đánh bại một con quái vật cá sấu bự.”
“Con trai của Sobek!” Sadie thốt lên. “Nhưng anh trai của em đã đánh bại con quái vật đó. Anh ấy chẳng kể gì về việc-”
“Tên anh em là Carter à ?” Annabeth hỏi.
Một luồng hào quang giận dữ lập lòe quanh đầu Sadie – một vòng chữ tượng hình giống như những khuôn mặt cau có, nắm tay và người chết.
“Từ bây giờ,” Sadie lẩm bẩm, “tên anh trai em là Bao cát. Dường như anh ấy chẳng bao giờ kể hết mọi thứ với em.”
“À.” Annabeth đã phải chiến đấu với sự thôi thúc trốn khỏi người bạn mới này. Cô sợ là những chữ tượng hình giận dữ đang phát sáng đó có thể nổ tung. “Ngại quá. Xin lỗi.”
“Đừng mà,” Sadie nói. “Em thật muốn đấm vào mặt anh trai hơn. Nhưng trước tiên, hãy kể cho em mọi chuyện – về chị, á thần, Hy Lạp và bất cứ gì có thể làm với người bạn quái vật có nanh của chúng ta ở đây.”
[1]boomerang: là một vũ khí thường có hình chữ V. Khi được phóng đi nó có thể tạo ra trong không khí những đường đi rất phức tạp và nếu không trúng đích nó sẽ quay trở lại chân người ném.
[2]pegasus: ngựa có cánh như chim đại bàng.
[3]drakon: là những sinh vật khổng lồ giống rắn và cổ xưa hơn loài rồng.
[4]Labrador: một giống chó phổ biến ở Mỹ.
[5]người đàn ông bánh quy gừng: một loại bánh quy gừng hình người, người ta thường làm tặng nhau vào dịp giáng sinh.
[6] Nhà sự sống: House of Life