Quay trở lại nhà, tôi đi lên căn phòng Thầy Trừ Tà cất quần áo đi đường. Tôi chọn lấy một trong những chiếc áo choàng cũ của thầy. Dĩ nhiên, chiếc áo quá rộng, gấu áo dài xuống gần tận mắt cá tôi trong khi mũ trùm đầu cứ phủ sụp che cả mắt. Nhưng không sao, áo choàng này sẽ giúp tôi chống chọi với cái lạnh ghê gớm nhất. Tôi cũng mượn luôn một trong những cây trượng của thầy, cây phù hợp nhất cho tôi dùng làm gậy đi bộ: cây trượng này ngắn hơn những cây còn lại và một đầu trượng hơi dày hơn một chút.
Rốt cuộc khi tôi rời khỏi nhà thì đã gần nửa đêm. Bầu trời trong veo cùng trăng ngày rằm tròn trịa vừa nhú ra khỏi những ngọn cây, nhưng tôi vẫn có thể ngửi thấy mùi mưa và gió thì đang tụ dần từ phía Tây.
Tôi bước ra vườn và thẳng tiến đến hố chứa Mẹ Malkin. Tôi sợ thật đấy, nhưng phải có ai đó làm việc này thôi và còn ai khác ngoài tôi ra cơ chứ? Dẫu sao tất cả cũng là lỗi tại tôi. Giá như tôi đã kể cho Thầy Trừ Tà nghe về cuộc gặp gỡ với Alice và về những gì cô đã bảo với đám thanh niên rằng Lizzie đang quay trở lại thì đỡ rồi! Khi ấy thầy đã có thể hình dung ra mọi chuyện. Rồi thầy sẽ không bị lừa đến mãi Pendle.
Càng nghĩ về chuyện này tôi càng thấy tồi tệ hơn. Đứa bé ở Rặng Núi Dài có lẽ đã không phải chết. Tôi cảm thấy có lỗi, có tội quá, với lại, tôi không thể chịu được ý nghĩ rằng thêm một đứa trẻ khác chắc sẽ phải mất mạng mà đấy cũng lại là lỗi do mình.
Tôi đi qua ngôi mộ thứ hai, nơi có mụ phụ thủy đã chết được chôn chúc đầu xuống đất, và từ đấy tôi nhón chân di chuyển rất chậm cho đến khi đến bên hố.
Một vạt ánh trăng rọi qua những rặng cây chiếu sáng hố, thế nên thấy rõ rành rành là chuyện gì đã xảy ra.
Tôi đến quá muộn.
Những thanh sắt đã bị bẻ thậm chí còn cong xa nhau hơn, gần thành hình dạng một vòng tròn. Ngay cả bác bán thịt cũng có thể dễ dàng len bờ vai lực lưỡng của bác ấy qua lỗ hổng kia.
Tôi nhìn xuống miệng hố tối đen nhưng chẳng thấy được gì. Chắc là tôi đang đau khổ hy vọng rằng biết đâu mụ ấy đã kiệt lực vì phải bẻ cong mấy thanh sắt nên chẳng còn sức đâu mà leo ra ngoài.
Xui quá. Vừa khi ấy, một đám mây che ngang qua mặt trăng khiến cho mọi vật càng thêm tăm tối, nhưng tôi có thể nhìn thấy lối đám dương xỉ rạp xuống. Tôi nhìn ra được hướng mụ ta đã đi. Vẫn còn đủ chút ánh sáng cho tôi theo dấu của mụ.
Vậy là tôi theo chân mụ ta bước vào trong bóng đêm. Tôi không di chuyển quá nhanh và cẩn trọng hết mực. Biết đâu mụ ta đang núp đâu đó mà phục tôi ngay phía trước thì sao? Tôi cũng biết rằng chắc chắn mụ đã chẳng đi được xa lắm đâu. Vì một lẽ, mới chỉ quá nửa đêm khoảng năm phút. Dù là trong bánh mụ ăn có thứ gì đi nữa, tôi biết rằng phép thuật bóng tối hẳn có dự phần vào việc giúp mụ lấy lại sức mạnh. Đấy là loại phép thuật được cho là trở nên uy quyền hơn trong những giờ khắc của bóng đêm – đặc biệt là vào lúc nửa đêm. Mụ ấy mới chỉ ăn hai chiếc bánh chứ không phải ba, đấy là lợi thế cho tôi, nhưng tôi cũng nghĩ về sức mạnh kinh khủng cần có để bẻ cong mấy thanh sắt ấy.
Khi đã đi ra khỏi rặng cây, tôi thấy dễ hơn là nên lần theo mụ qua lối cỏ. Mụ đang đi xuống đồi nhưng mà về hướng sẽ đưa mụ đi xa khỏi căn nhà của Lizzie Xương Xẩu. Thoạt đầu việc này làm tôi khó hiểu, nhưng rồi tôi nhớ ra con sông dưới mương nước kia. Một phù thủy độc không thể băng qua dòng nước chảy – Thầy Trừ Tà đã dạy tôi thế – cho nên mụ ta phải di chuyển dọc theo bờ sông cho đến khi dòng sông cuộn mình ngược lại, làm cho đường đi của mụ được quang quẻ.
Lúc đã nhìn thấy con sông, tôi dừng bước trên mạn đồi, đưa mắt rà soát vùng đất bên dưới. Mặt trăng đã ló ra khỏi đám mây, nhưng mới đầu, dẫu có ánh trăng trợ giúp, tôi vẫn không thể nhìn ra được gì nhiều dưới con sông kia vì hai bên bờ sông đều um tùm cây cỏ phủ bóng tối thui.
Rồi đột nhiên tôi để ý thấy một thứ gì đó khác lạ. Bên bờ sông phía gần tôi có một vệt dài bàng bạc. Vệt này chỉ được nhìn thấy ở nơi ánh trăng chiếu đến, nhưng nó trông như một vệt lấp lánh do con sên tạo thành. Vài giây sau, tôi lại nhìn ra một thứ đổ bóng dài, tối đen, gù gù khoằm khoằm, đang lê bước dọc theo gần sát bờ sông.
Tôi phóng nhanh xuống đồi bằng hết tốc lực. Chủ ý của tôi là chạy đến cắt ngang đường mụ trước khi mụ ta lê bước đến khúc quanh của con sông để rồi có thể thẳng tiến về nơi ở của Lizzie Xương Xẩu. Tôi đã cố chạy cho đến nơi rồi đứng sững đó, bên tay phải là dòng sông, tôi đối mặt với dòng nước xuôi. Nhưng kế đến mới là phần khó khăn. Giờ tôi phải đối mặt với mụ phù thủy.
Tôi run lập cập và hụt hết cả hơi đến nỗi bạn có thể tưởng là một tiếng đồng hồ vừa qua tôi đã chạy lên chạy xuống rặng đồi đá. Đấy là một cảm giác pha lẫn giữa sợ hãi và lo lắng, hai đầu gối tôi có vẻ như là sẽ sụm xuống bất cứ lúc nào. Chỉ có nhờ tì hết cả người vào cây trượng của Thầy Trừ Tà mà tôi mới đứng vững bằng hai chân được.
Dòng sông không đến nỗi rộng lắm, nhưng lại sâu, nhờ những cơn mưa mùa xuân mà nước cuồn cuộn dâng lên đến ngang mức suýt chút nữa vỡ cả bờ. Nước sông cũng chảy rất nhanh, từ phía tôi dòng sông cuồn cuộn xiết về phía bóng tối dưới những rặng cây nơi mụ phù thủy đang đứng. Tôi chăm chú quan sát, nhưng cũng phải mất một lúc tôi mới nhìn ra mụ.
Mẹ Malkin đang di chuyển về phía tôi. Mụ ta còn tối tăm hơn bóng đen của những rặng cây, một kiểu bóng tối mà bạn có thể sẩy chân vào, loại bóng tối có thể nuốt chửng bạn vĩnh viễn. Khi đấy thì tôi nghe thấy tiếng mụ, thậm chí còn át cả tiếng động do dòng sông nước xiết gây ra. Không chỉ là âm thanh từ đôi chân trần của mụ, lúc này đang tạo ra những tiếng lép nhép khi chúng lướt qua những ngọn cỏ dài bên mép suối tiến về phía tôi. Không chỉ là thế – còn có những âm thanh khác do miệng và có lẽ là cả mũi của mụ gây ra. Cùng một kiểu âm thanh mụ phát ra khi tôi đem bánh đến cho mụ. Là những tiếng khụt khịt khùng khục một lần nữa khiến cho hình ảnh mấy con lợn lông lá sục mũi vào xô rau heo ùa vào tâm trí tôi. Thế rồi lại thêm một tiếng động khác, tiếng hút sột soạt.
Khi mụ di chuyển từ dưới lùm cây ra chỗ sáng, ánh trăng trùm lên người mụ và đây là lần đầu tiên tôi nhìn rõ được mụ ta. Đầu mụ chúi xuống thấp, khuôn mặt bị một mớ tóc trắng xám rối bù che khuất, nên nhìn có vẻ như mụ đang trông xuống mấy ngón chân mình, mà ngón chân mụ lại khuất vào bên dưới tấm áo dài đen thõng xuống đến tận mắt cá. Mụ cũng đang khoác chiếc áo choàng đen, và hoặc là chiếc áo quá dài so với mụ, hoặc là bao nhiêu năm bị nhốt trong lòng đất ẩm đã làm cho mụ teo tóp lại. Chiếc áo phết xuống mặt đất đằng sau mụ, và có vẻ chính do chiếc áo, lệt phệt lê qua đám cỏ, đã để lại vệt sáng bàng bạc.
Áo của mụ rách mướp và dơ hầy, điều này chẳng có gì là ngạc nhiên, nhưng cũng có thêm những vết bẩn mới – những vạt bẩn đen đen ươn ướt. Bên hông mụ có thứ gì đó đang nhỏ giọt xuống cỏ, và những giọt ấy nhỏ ra từ vật mụ đang nắm chặt bên tay trái.
Là một con chuột cống. Mụ ta đang ăn chuột cống. Ăn sống.
Dường như mụ chưa để ý đến tôi. Giờ mụ đã ở rất gần, và nếu không có gì xảy ra thì mụ sẽ đâm sầm vào tôi mất. Bỗng nhiên tôi ho lên một tiếng. Không phải là để cảnh báo gì cho mụ. Chỉ là cái ho bật lên do lo lắng và tôi thật chẳng muốn nó xảy ra.
Lúc ấy mụ mới nhìn lên tôi, một bản mặt ngẩng lên từ phía ánh trăng như từ trong ác mộng hiện ra, một bản mặt không thể nào là của người sống. Ô, nhưng mà mụ còn sống sờ sờ ra đây mà. Bạn có thể nhận thấy điều này qua những tiếng động mụ phát ra khi đang ăn con chuột kia.
Nhưng ở mụ còn có một thứ gì đó khác khiến tôi hoảng sợ đến độ sém chút nữa lăn đùng ra ngất tại chỗ. Là hai mắt của mụ. Chúng là hai hòn than nóng rực cháy bừng trong hố mắt, hai đốm lửa đỏ lòm.
Đoạn mụ cất lời nói với tôi, giọng của mụ vừa như tiếng thì thào lẫn như tiếng rền rĩ. Nghe như thể những chiếc lá chết khô xào xạc vào nhau trong ngọn gió cuối thu.
“Là một thằng bé trai,” mụ bảo. “Ta thích bé trai. Đến đây nào thằng nhãi.”
Dĩ nhiên là tôi chẳng đến. Tôi đứng lì ra đó, chân mọc rễ ngay tại đấy. Tôi thấy choáng váng quay cuồng.
Mụ ta vẫn tiến về phía tôi và hai mắt mụ như thể mỗi lúc một lớn dần. Không chỉ có mắt mụ không đâu; cả thân hình mụ dường như cũng phổng lên. Mụ phình ra thành một đám mây đen độc ác to tướng mà có thể chỉ trong phút chốc sẽ làm hai mắt tôi tối đen mãi mãi.
Chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, tôi nâng thanh trượng của Thầy Trừ Tà lên. Là hai bàn tay và cánh tay tôi làm thế đấy, chứ chẳng phải do tôi.
“Gì thế, ranh con, đũa phép đấy à?” mụ ta rền rĩ. Thế rồi mụ ta cười tủm tỉm một mình và buông con chuột chết xuống, giơ cả hai tay về phía tôi.
Tôi là thứ mụ muốn. Mụ ta muốn có máu của tôi. Kinh hoàng quá thể, toàn thân tôi bắt đầu lắc lư qua lại. Tôi như một cây non đảo điên ngay trong ngọn gió đầu tiên, ngọn gió dông đầu tiên của một mùa đông tăm tối mãi không bao giờ chấm dứt.
Lẽ ra tôi có thể đã chết ngay lúc ấy, bên bờ con sông ấy. Chẳng có ai quanh đây mà cứu tôi, còn tôi lại không cảm thấy được chút quyền năng nào để tự cứu lấy mình.
Nhưng đột nhiên chuyện ấy xảy đến...
Cây trượng của Thầy Trừ Tà không phải là chiếc đũa phép, mà là còn nhiều hơn chỉ một loại phép thuật. Hai tay tôi hóa phép ra thứ gì đó thật đặc biệt, cử động vun vút còn nhanh hơn tôi kịp nghĩ.
Chúng nhấc cây trượng lên mà vung thật mạnh, tương một cú chí mạng mé bên đầu mụ phù thủy.
Mụ ta gừ lên rồi té nghiêng xuống dòng sông. Có tiếng tóe nước rõ to khi mụ rơi tõm xuống sát ngay bờ sông, cách dòng nước xuôi dòng chừng năm sáu bước. Thoạt tiên, tôi nghĩ thế là chấm dứt đời mụ rồi, nhưng kinh thật, cánh tay trái của mụ thò lên khỏi mặt nước chộp lấy một túm cỏ. Thế rồi cánh tay còn lại cũng mò lên đến bờ và mụ ta lê mình lên khỏi mặt nước.
Tôi biết mình phải làm gì đó trước khi quá muộn. Thế là, vận dụng sức mạnh ý chí, tôi buộc mình tiến lên một bước đến gần mụ, trong lúc mụ lê được thêm phần thân mình lên đến bờ.
Khi đã đến gần rồi, tôi ra tay làm chuyện mà mãi đến giờ tôi vẫn nhớ rõ mồn một. Và tôi vẫn còn mơ thấy ác mộng về chuyện này. Nhưng tôi có còn lựa chọn nào đâu? Hoặc mụ hoặc tôi. Chỉ có một trong hai chúng tôi được sống sót.
Tôi dùng một đầu trượng mà đâm xuống mụ. Tôi cắm đầu đâm mạnh, đâm mãi, cho đến khi cuối cùng mụ tuột tay ra khỏi bờ sông và bị cuốn đi vào bóng tối.
Nhưng dù thế vẫn chưa hết chuyện. Lỡ đâu xuôi xa dưới dòng kia mụ lại xoay sở bò lên khỏi mặt nước thì sao? Mụ vẫn có thể đến được nhà Lizzie Xương Xẩu. Tôi phải đảm bảo rằng chuyện ấy không xảy ra. Tôi biết, giết chết mụ là điều không phải, rồi một ngày nào đấy mụ lại sống lại và mạnh hơn bao giờ hết, nhưng không có sợi xích bạc thì tôi chẳng thể nào mà chèn mụ được. Chuyện trước mắt mới là quan trọng, chứ chẳng phải tương lai. Bất kể là có khó khăn đến mấy, tôi biết mình phải men theo dòng sông đi đến bìa rừng.
Thế là tôi bắt đầu đi dọc bờ sông, đi thật chậm, cứ mỗi năm sáu bước chân thì dừng lại nghe ngóng. Những gì tôi nghe được là tiếng gió khe khẽ thở than qua những nhánh cây bên trên. Trời rất tối, chỉ thi thoảng mới có vệt ánh trăng chui được qua vòm lá, mỗi vệt như một ngọn giáo bạc ghi dấu lên mặt đất.
Lần thứ ba tôi dừng lại thì chuyện đó xảy ra. Không chút cảnh báo. Tôi chẳng nghe thấy gì. Chỉ đơn giản là cảm thấy nó. Một bàn tay trượt lên ủng tôi, rồi trước khi tôi kịp né đi, bàn tay ấy tóm chặt mắt cá tôi.
Tôi cảm nhận được sức mạnh của cái siết ấy. Cứ như thể mắt cá tôi bị bóp vụn đến nơi. Khi nhìn xuống, tôi có thể thấy đôi mắt đỏ rực từ trong bóng tối trừng trừng nhìn lên mình. Tôi hoảng quá, nhắm mắt nhắm mũi mà đâm tới tấp xuống bàn tay vô hình đang túm chặt mắt cá mình.
Tôi chậm quá rồi. Mắt cá tôi giật thật mạnh làm tôi ngã xuống đất, cú ngã tống hết mọi hơi thở ra khỏi người. Còn tệ hơn nữa là, cây trượng vuột ra khỏi tay tôi, để lại tôi trơ trọi vô phương chống cự.
Tôi nằm yên đấy một chốc, cố lấy lại hơi, cho đến khi cảm thấy thân mình tôi bị kéo lê về phía bờ sông. Khi nghe tiếng nước bắn lên, tôi biết chính xác chuyện gì đang xảy ra. Mẹ Malkin đang lợi dụng tôi để lê thân mụ khỏi dòng sông. Hai chân mụ phù thủy đang quẫy đạp tứ tung dưới nước còn tôi thì biết một trong hai chuyện này sẽ xảy ra: hoặc là mụ sẽ vùng được lên bờ, hoặc là tôi sẽ rớt xuống sông cùng mụ.
Tuyệt vọng vùng vẫy giãy thoát, tôi lăn mình sang trái, vặn vẹo cố rút mắt cá trái ra. Mụ ta bám chặt nên tôi lại lăn thêm vòng nữa rồi dừng lại khi mặt mình ép xuống nền đất ẩm. Thế rồi tôi nhìn thấy cây trượng, phần đầu dày hơn của nó nằm dưới vệt ánh trăng. Cây trượng nằm ngoài tầm với của tôi, cách tôi chừng ba bốn bước.
Tôi lăn mình về phía nó. Lăn lăn mãi, bấu chặt mấy đầu ngón tay xuống nền đất mềm, thân mình vặn vẹo như chiếc mở nút chai. Mẹ Malkin đang nắm cứng mắt cá tôi, nhưng mụ chỉ có được thế. Nửa thân dưới của mụ vẫn còn chìm dưới nước, thế cho nên bất chấp là có sức mạnh kinh khủng, mụ vẫn không thể ngăn tôi thôi không lăn được và sau mỗi lần lăn tôi lại vặn người mụ còn dưới nước theo mình.
Cuối cùng tôi cũng rướn tới được cây trượng và nện thật mạnh nó vào mụ phù thủy. Nhưng bàn tay kia của mụ lại chìa ra dưới ánh trăng mà chộp lấy đầu kia cây trượng.
Khi ấy tôi nghĩ thế là hết. Tôi nghĩ thế là tiêu đời mình rồi, nhưng ngạc nhiên chưa kìa, Mẹ Malkin bất thần ré lên thật lớn. Toàn thân mụ đột nhiên cứng ngắc còn hai mắt trợn ngược lên đầu. Rồi thì mụ thở hắt ra thật sâu, thật lâu và trở nên bất động.
Cả hai chúng tôi nằm vật ra bên bờ sông trong một lúc tưởng như rất dài. Chỉ có ngực tôi là nhấp nhô lên xuống khi tôi hồng hộc thở; Mẹ Malkin thì chẳng nhúc nhích gì. Cuối cùng, khi mụ ta nhúc nhích, thì không phải là để thở. Rất chậm, rất chậm, một bàn tay rời khỏi cổ chân tôi rồi bàn tay kia thả cây trượng ra và mụ trượt dần khỏi bờ sông, chìm xuống dưới nước mà chẳng làm tóe lên giọt nào. Tôi chẳng biết chuyện gì đã xảy ra nhưng mụ đã đi đời thật rồi – chuyện này thì tôi chắc chắn.
Tôi nhìn theo xác mụ bị dòng nước cuốn ra khỏi bờ và xoáy vào giữa lòng sông. Ánh trăng vẫn còn sáng soi theo đầu mụ đang chìm dần xuống nước. Mụ ta biến rồi. Chết ngắc và biến hẳn.