Khi chúng tôi đi xuống đồi và hướng về phía nông trại, một cơn mưa phùn ấm áp tạt vào mặt chúng tôi. Xa xa đằng kia có con chó sủa lên hai tiếng, nhưng phía bên dưới vạn vật đều yên ả và tĩnh lặng.
Đấy đã là lúc chiều tà và tôi biết bố cùng anh Jack giờ vẫn còn đang ở ngoài đồng, như thế tôi sẽ có thời gian trò chuyện riêng với mẹ. Thầy Trừ Tà bảo tôi đem theo Alice về nhà cùng với tôi thì dễ rồi, nhưng chuyến đi đã cho tôi thời gian suy nghĩ và tôi không rõ mẹ mình sẽ tiếp nhận chuyện này như thế nào. Tôi không cảm thấy là bà sẽ vui vẻ gì khi có một người như Alice ở trong nhà, nhất là khi tôi kể cho bà nghe những chuyện Alice từng làm. Còn đối với Jack, tôi biết khá rõ phản ứng của anh ấy sẽ là như thế nào. Từ những gì lần trước Ellie đã kể cho tôi nghe về thái độ của anh ấy đối với công việc mới của tôi, việc tiếp nhận một cô cháu gái của phù thủy vào trong nhà là điều cuối cùng anh ấy muốn.
Vừa đi băng qua sân nhà tôi vừa chỉ tay về phía chuồng cỏ. “Tốt hơn là cậu nên vào đấy trú tạm một lát,” tôi bảo. “Còn tớ sẽ vào trong nhà giải thích.”
Tôi chưa kịp dứt lời thì một tiếng khóc ré của em bé đang đói bụng từ gian nhà chính vọng thẳng đến. Hai mắt Alice chóng vánh nhìn vào mắt tôi, rồi cô gái cụp mắt xuống làm tôi nhớ lại lần cuối cùng chúng tôi ở cạnh nhau khi có một đứa bé đang khóc.
Không nói một lời, Alice quay lưng đi về kho chứa cỏ, sự im lặng của cô chẳng hơn những gì tôi mong đợi. Bạn hẳn nghĩ sau tất cả những chuyện đã xảy ra thì chắc sẽ có lắm thứ để trao đổi trong suốt chuyến đi, nhưng thực ra là hầu như chúng tôi chẳng nói chẳng rằng. Tôi nghĩ chắc do Alice còn bực mình về cái cách Thầy Trừ Tà nắm lấy hàm và ngửi lấy mùi hơi thở của cô. Có lẽ như thế khiến cô nghĩ đến mọi chuyện mình đã làm trước kia. Dù đấy có là gì, Alice có vẻ như chìm đắm trong suy tưởng và gần suốt cuộc hành trình cô chỉ toàn buồn bã.
Tôi đoán là lẽ ra mình đã có thể cố gắng hơn nữa, nhưng tôi quá mệt và tơi tả, thế nên chúng tôi bước đi trong im lặng cho đến khi việc im lặng ấy biến thành thói quen. Đấy là một sai lầm: đáng lẽ tôi phải cố gắng tìm hiểu Alice nhiều hơn – như thế sẽ giúp tôi tránh được nhiều rắc rối về sau.
Khi tôi giật mở cánh cửa hậu thì tiếng em bé khóc ngừng lại và tôi nghe thấy một âm thanh khác, tiếng cọc cạch vỗ về từ chiếc ghế đu của mẹ.
Chiếc ghế kê cạnh cửa sổ nhưng màn cửa không được kéo kín lại nên tôi có thể nhìn thấy mặt mẹ khi bà hé nhìn qua khe hở hẹp giữa hai tấm màn. Mẹ đã quan sát hai chúng tôi đi vào trong sân, và khi tôi đi vào nhà, mẹ bắt đầu đu đưa ghế nhanh hơn và mạnh hơn, suốt khi ấy bà nhìn chằm chằm vào tôi không một lần chớp mắt, nửa gương mặt của bà chìm trong bóng tối, nửa mặt còn lại được cây nến to đùng đang hấp háy cháy trên chân nến bằng đồng đặt giữa bàn soi rõ.
“Khi con dẫn khách theo cùng, theo phép lịch sự thì con phải mời cô ấy vào nhà,” mẹ cất lời, giọng mẹ nghe khó chịu pha lẫn ngạc nhiên. “Mẹ nghĩ mình đã dạy con còn hay hơn thế đấy chứ.”
“Thầy Gregory bảo con mang cô ấy đến đây,” tôi thưa. “Tên cô ấy là Alice nhưng trước đây cô ấy đã giao du với người xấu. Thầy muốn mẹ nói chuyện với cô ấy nhưng con nghĩ tốt nhất là phải cho mẹ biết trước những gì đã xảy ra, phòng khi mẹ không muốn mời cô ấy vào nhà.”
Thế là tôi kéo ghế lại gần và kể cho bà nghe chính xác chuyện gì đã xảy ra. Khi tôi dứt lời, mẹ thốt ra một tiếng thở dài, rồi một nụ cười mơ hồ thoáng qua làm mặt mẹ dịu lại.
“Con trai à, con đã làm rất tốt,” mẹ bảo tôi. “Con còn trẻ người, lại mới mẻ với công việc, nên những lỗi lầm của con đáng được tha thứ. Đi ra mang con bé tội nghiệp ấy vào đây đi, rồi để bọn ta lại trò chuyện với nhau. Chắc là con muốn lên lầu chào hỏi cháu gái mới sinh của con. Tất nhiên Ellie sẽ rất mừng khi gặp lại con đấy.”
Vậy nên tôi đưa Alice vào nhà, để cô gái lại với mẹ còn mình thì đi lên lầu.
Ellie nằm trong phòng ngủ lớn nhất. Trước đây phòng này thuộc về bố mẹ nhưng bố mẹ đã nhường cho chị ấy và Jack, bởi vì trong phòng này còn có thêm chỗ cho hai chiếc giường lẫn một chiếc cũi nữa, như thế sẽ rất tiện dụng khi gia đình của hai anh chị tăng thêm người.
Tôi nhẹ nhàng gõ cửa, cánh cửa đang khép hờ, nhưng tôi chỉ thò đầu nhìn vào trong phòng sau khi Ellie đã gọi với ra kêu tôi vào. Chị ấy đang ngồi bên mép chiếc giường đôi to tướng cho em bé bú, nửa đầu bé khuất trong khăn quàng màu hồng. Vừa khi nhìn thấy tôi thì Ellie đã nhoẻn rộng miệng cười, khiến tôi thấy mình được chào đón, nhưng chị ấy cũng trông mệt mỏi, tóc tai rũ rượi và nhớt nhờn. Dù là tôi đã nhanh mắt nhìn sang chỗ khác, nhưng Ellie rất tinh và tôi biết chị ấy đã nhìn thấy mình liếc qua và cũng đã đọc được biểu hiện trong mắt tôi, bởi vì chị đã nhanh tay vén tóc qua khỏi mắt.
“Ôi, chị xin lỗi nhé Tom,” Ellie bảo. “Hẳn chị trông đầu bù tóc rối lắm nhỉ – chị đã phải thức cả đêm rồi. Mới chỉ ngủ nhoáng được một tiếng thôi. Ta phải ngủ ngay khi có thể khi có một đứa con háu đói như thế này. Con bé khóc nhiều lắm, nhất là về đêm ấy.”
“Cháu sinh ra được bao lâu rồi vậy chị?” tôi hỏi.
“Tới đêm nay thì mới được sáu ngày tuổi thôi. Con bé được sinh ra sau nửa đêm thứ Bảy vừa rồi một chút.”
Đấy là đêm tôi đã giết Mẹ Malkin. Trong thoáng chốc, những hồi ức về sự kiện ấy ùa về trong tôi gây nên một cơn ớn lạnh dọc sống lưng.
“Đây này, con bé bú xong rồi đấy,” Ellie vừa mỉm cười vừa bảo. “Em có muốn ẵm không?”
Đấy là chuyện cuối cùng mà tôi muốn làm. Em bé nhỏ và mong manh đến nỗi tôi sợ mình sẽ siết nó quá mạnh hay là đánh rơi nó, với lại tôi không thích cái kiểu đầu con bé cứ phập phà phập phồng. Nhưng mà từ chối cũng khó lắm thay, bởi thế thì Ellie sẽ thấy tổn thương mất. Thôi mặc kệ, tôi cũng không phải ẵm con bé lâu vì ngay khi tôi ôm nó vào tay thì gương mặt bé xíu của nó đỏ ửng lên và nó bắt đầu khóc ré.
“Em nghĩ nó không thích em,” tôi bảo Ellie.
“Con bé là con bé, chứ không phải là nó,” Ellie quở tôi, gương mặt đanh lại giận dữ. “Thôi đừng lo, không phải do em đâu Tom,” chị ấy bảo, miệng hiền hòa mỉm cười. “Chị nghĩ con bé vẫn còn đói, thế thôi.”
Đứa bé ngưng khóc ngay khi Ellie ẵm nó lại và sau đấy tôi cũng không nấn ná lại lâu. Thế rồi, trên đường trở xuống, tôi nghe từ phòng bếp vọng ra âm thanh mà mình đã không mong đợi.
Là tiếng cười, cười lớn, nồng nhiệt, của hai con người rất hợp cạ nhau. Lúc tôi mở cửa phòng bước vào, khuôn mặt của Alice vụt trở nên nghiêm trang, nhưng mẹ vẫn tiếp tục cười to thêm chốc lát, mà thậm chí đến khi mẹ thôi cười, khuôn mặt của bà vẫn ngời lên rạng rỡ. Hai người họ vừa chia sẻ một câu chuyện hài, cực kỳ khôi hài, nhưng tôi không thích hỏi đấy là chuyện gì, và họ cũng không kể cho tôi nghe. Ánh mắt của hai người khiến tôi cảm thấy đấy là chuyện riêng tư.
Bố tôi từng bảo là phụ nữ biết những chuyện mà cánh đàn ông không biết. Rằng đôi khi phụ nữ có cái vẻ gì đấy trong mắt, nhưng khi bạn nhìn thấy, bạn không bao giờ nên hỏi họ rằng họ đang nghĩ gì. Nếu bạn lỡ có hỏi thì họ sẽ trả lời cho bạn nghe điều mà bạn chẳng muốn nghe. Thì thôi, cứ cho là mẹ và Alice có đang cười vì gì đi nữa thì chuyện ấy cũng đã làm hai người họ xích lại gần nhau hơn; từ khi ấy trở đi, có vẻ như hai người đã quen biết nhau bao nhiêu năm nay rồi. Thầy Trừ Tà nói đúng. Nếu có ai đó có thể giúp cho Alice, người đấy chỉ có thể là mẹ.
Nhưng tôi đúng là có để ý thấy một điều. Mẹ đã cho Alice ngủ trong phòng ngay đối diện phòng ngủ của bố mẹ. Đấy là hai căn phòng ngay đầu dãy cầu thang thứ nhất. Tai mẹ rất thính và như thế có nghĩa là nếu Alice có giở trò gì trong đêm khi đang ngủ thì mẹ sẽ có thể nghe ra được.
Nghĩa là dù có cười nhiều đến thế, mẹ vẫn đang để mắt trông chừng Alice.
Từ đồng trở về, Jack quắc mắt nhìn tôi một cái rồi tự mình lầm bầm. Dường như anh ấy đang cáu kỉnh với chuyện gì đấy. Nhưng bố thì rất vui khi gặp lại tôi, và ngạc nhiên làm sao là bố còn bắt tay tôi nữa. Bố luôn bắt tay khi chào đón những người anh khác đã rời khỏi nhà, nhưng đây là lần đầu tiên bố làm thế với tôi. Chuyện này làm tôi vừa buồn vừa hãnh diện. Bố đối xử với tôi như thể tôi là một người đàn ông, tự mình biết quyết định đường đi cho mình trong thế giới này.
Jack ở trong nhà chưa tới năm phút thì anh đã đi tìm tôi. “Ra ngoài kia,” anh bảo, giữ cho giọng thật thấp để không ai có thể nghe ra. “Anh muốn nói chuyện với chú.”
Chúng tôi đi ra sân khi anh ấy dẫn đường đi vòng qua bên hông kho chứa cỏ, gần khu chuồng lợn, nơi người trong nhà sẽ không nhìn thấy chúng tôi.
“Cái con bé chú mang theo về là ai thế?”
“Tên cô ấy là Alice. Chỉ là một người cần giúp đỡ thôi mà,” tôi đáp. “Thầy Trừ Tà bảo em mang cô ấy về nhà để mẹ có thể nói chuyện với cô ấy.”
“Ý chú là sao, con bé cần giúp đỡ à?”
“Trước đây cô ấy từng giao du với người xấu, thế thôi.”
“Loại người xấu thế nào?”
Tôi biết Jack sẽ chẳng thích đâu nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi phải nói cho anh ấy biết thôi. Bằng không, Jack chỉ việc hỏi mẹ.
“Dì cô ấy là phù thủy, nhưng đừng lo – Thầy Trừ Tà đã giải quyết xong xuôi rồi, với lại bọn em sẽ chỉ ở lại vài ngày thôi mà.”
Jack đùng đùng nổi giận. Tôi chưa từng thấy anh ấy giận dữ đến thế.
“Chú có còn chút suy nghĩ nào từ lúc được sinh ra không vậy?” Jack quát lớn. “Chú không biết suy nghĩ à? Chú không nghĩ đến em bé sao? Trong nhà này có một đứa bé vô tội sinh sống đấy, vậy mà chú lại mang về nhà một con người xuất thân từ gia đình như thế! Thật không thể tin nổi!”
Jack giơ nắm đấm lên làm tôi tưởng anh ấy sẽ thoi tôi. Nhưng không, anh ấy lại phạt chéo vào bức tường kho chứa cỏ, cú “thịch” bất ngờ làm mấy con lợn hoảng cả lên.
“Mẹ cũng nghĩ là không sao mà,” tôi phản đối.
“Ôi dào, mẹ khi nào chẳng thế,” Jack đốp lại, giọng anh bất ngờ chùng xuống, nhưng vẫn còn hằn học vì giận. “Làm sao mẹ có thể từ chối thằng con yêu nhất của mình điều gì cơ chứ? Với lại mẹ quá nhân hậu, chú biết rõ quá rồi còn gì. Đấy là lý do vì sao chú đừng nên lợi dụng. Này, anh là người chú phải trả lời nếu có chuyện gì xảy ra đấy nhé. Anh không thích nhìn thấy con nhỏ đấy. Trông nó xảo quyệt lắm. Anh sẽ cẩn thận để mắt đến nó, và nếu nó chỉ vượt quá giới hạn một bước thôi, cả hai đứa sẽ bị đuổi đi ngay khi chưa kịp chớp mắt đấy. Với lại khi ở đây thì phải tự tìm lấy miếng ăn. Con bé ấy có thể giúp đỡ lặt vặt trong nhà đỡ đần cho mẹ, còn chú phải ra sức san sẻ công việc đồng áng đấy.”
Jack quay lưng dợm bước đi, nhưng anh ấy vẫn còn một điều muốn nói. “Quá bận rộn với những việc quan trọng hơn,” anh thêm vào với vẻ mai mỉa, “chắc chú không rảnh mà để ý bố trông mỏi mệt thế nào chứ gì. Bố ngày càng thấy công việc mỗi thêm nặng nhọc đấy.”
“Dĩ nhiên là em sẽ giúp,” tôi nói với theo Jack, “cả Alice cũng thế.”
Trong bữa tối, ngoại trừ mẹ ra, mọi người khác đều im lặng. Tôi đoán chắc là do có người lạ ngồi chung bàn với chúng tôi. Mặc dù phép lịch sự không cho Jack than phiền công khai gì, nhưng anh ấy cứ quắc mắt nhìn Alice cũng nhiều như khi nhìn tôi. Vậy nên cũng hay là mẹ đã hoạt bát và khá nhanh trí để khiến cho cả bàn ăn được vui vẻ.
Ellie phải rời bữa tối hai lần để trông nom cho đứa bé, con bé cứ khóc váng cả nhà. Đến lần thứ hai thì chị ấy cho bé bú ngay dưới lầu.
“Chưa từng thấy đứa bé nào khóc nhiều như thế,” mẹ vừa mỉm cười vừa bảo. “Ít ra thì con bé có được hai lá phổi khỏe khoắn, mạnh mẽ.”
Gương mặt bé xíu của con bé lại ửng đỏ lên rồi lại cau có. Tôi chắc hẳn sẽ không khi nào bảo điều này với Ellie, nhưng đây không phải là đứa bé có gương mặt ưa nhìn nhất. Gương mặt của nó nhắc cho tôi nhớ đến một mụ già giận dữ. Lúc này nó vừa mới khóc toáng; thế rồi, đột nhiên ngay thoắt sau, nó lại nằm im và nín bặt. Hai mắt nó mở thao láo và nhìn mãi về phía giữa bàn, nơi Alice đang ngồi cạnh chân nến bằng đồng thật to. Thoạt đầu, tôi chẳng nghĩ ngợi gì nhiều. Tôi nghĩ bé con của Ellie chỉ thấy thích ngọn nến tí tách mà thôi. Nhưng sau đấy, khi Alice giúp mẹ dọn bàn, cứ mỗi lần Alice đi qua, con bé lại dõi đôi mắt xanh nhìn theo và thốt nhiên, dù căn bếp rất ấm, tôi vẫn thấy rùng mình.
Chốc lát sau, tôi lên phòng ngủ cũ của mình, và khi tôi ngồi xuống chiếc ghế bện bằng liễu gai cạnh cửa sổ mà nhìn ra ngoài, tôi thấy như thể mình chưa từng rời khỏi gia đình.
Khi đưa mắt nhìn sang hướng bắc, về phía Đồi Treo Cổ, tôi nghĩ về việc dường như đứa bé rất hứng thú với Alice. Rồi khi nhớ đến những gì Ellie đã nói trước đấy, tôi rùng mình lần nữa. Đứa bé con của Ellie được sinh ra sau nửa đêm vào đêm trăng tròn. Như thế thì trùng hợp thái quá. Hẳn là Mẹ Malkin đã bị dòng sông cuốn đi khoảng ngay lúc mà con của Ellie chào đời. Thầy Trừ Tà từng cảnh báo tôi rằng mụ ta sẽ sống lại. Nếu như mụ ta sống lại thậm chí còn sớm hơn là thầy tiên liệu thì sao nhỉ? Thầy tiên đoán mụ ta sẽ rất quỷ quyệt. Nhưng giả sử thầy sai thì sao? Nếu như mụ ta đã giải thoát khỏi xương cốt mình và linh hồn mụ đã ám vào con của Ellie ngay lúc đứa bé được sinh ra thì thế nào?
Đêm ấy, tôi không chợp mắt được lấy một chốc. Chỉ duy nhất có một người để tôi giãi bày những nỗi sợ hãi của mình, và đấy là mẹ. Khó là khó để kéo mẹ ra nói chuyện một mình mà không làm ai chú ý đến việc tôi đang làm ấy.
Mẹ nấu nướng và làm những việc hàng ngày khác nên bà bận rộn suốt ngày, và thường thì chẳng có vấn đề gì để nói chuyện với mẹ trong bếp cả vì tôi cũng đang làm việc gần đấy. Jack đã giao cho tôi sửa lại phần mặt tiền của kho chứa cỏ, và đến trước khi trời tối tôi phải đóng được hàng trăm chiếc đinh mới sáng loáng.
Nhưng Alice mới là điều khó khăn: mẹ kè kè cô gái cả ngày, đúng thật là khiến cho Alice làm việc rất căng. Bạn có thể nhận thấy điều này qua lớp mồ hôi đọng trên chân mày cô gái, và qua những cái nhíu mày khiến trán cô nhíu cả lại, nhưng dù có là thế, Alice vẫn không hề hé môi than vãn lấy một lần.
Chỉ đến sau bữa ăn tối, khi mọi người đã thôi việc dọn rửa và lau khô bát đĩa rổn rảng, tôi mới có cơ hội. Sáng hôm đấy bố tôi đã đi đến chợ phiên mùa xuân quan trọng ở Topley. Ngoài việc đến đó lo buôn bán ra, đấy cũng là một dịp hiếm hoi cho bố được gặp gỡ vài ông bạn già, cho nên bố sẽ xa nhà hai ba ngày gì đấy. Jack nói đúng. Đúng là trông bố mệt mỏi thật và chuyến đi này giúp bố ngơi tay khỏi việc đồng áng.
Mẹ đã bảo Alice lên phòng nghỉ ngơi, Jack đã đi ra phòng trước còn Ellie đang ở lầu trên cố chợp mắt trong nửa tiếng trước khi đứa bé lại thức dậy đòi bú. Vậy là, không để phí chút thời gian nào, tôi bắt đầu nói cho mẹ nghe điều đang làm mình lo lắng. Nãy giờ mẹ đang đu đưa ghế nhưng mãi đến khi ghế dừng hẳn thì tôi mới thốt ra câu đầu tiên. Mẹ chăm chú lắng nghe khi tôi kể cho bà nghe mối lo sợ của mình và lý do khiến tôi nghi ngờ đứa bé. Nhưng gương mặt của mẹ vẫn giữ nguyên vẻ bình tâm tĩnh lặng đến nỗi tôi chẳng biết bà đang nghĩ gì. Tôi vừa dứt lời cuối cùng thì mẹ đã đứng lên.
“Con chờ ở đây,” mẹ bảo. “Chúng ta cần phải giải quyết dứt điểm chuyện này.”
Mẹ ra khỏi bếp rồi đi lên lầu. Khi trở xuống, mẹ bồng theo đứa bé được quấn trong chiếc khăn sam của Ellie. “Mang cây nến lại đây nào,” mẹ vừa bảo vừa đi về phía cửa.
Chúng tôi đi ra ngoài sân, mẹ đi thật nhanh, như thể bà biết chính xác mình sẽ đi đâu và sẽ làm gì. Chúng tôi dừng bước phía bên kia đống rác gia súc, đứng trong vũng sình bên rìa ao nước của nhà, ao này khá sâu và rộng đủ để cung cấp nước cho đàn bò sữa nhà tôi qua cả những tháng hè khô hạn nhất.
“Con hãy giữ cao ngọn nến để chúng ta có thể nhìn thấy mọi điều,” mẹ bảo. “Mẹ muốn là chẳng còn nghi ngờ gì nữa.”
Thế rồi, trong lúc tôi hoảng kinh, mẹ đã vươn hai tay giơ đứa bé ra ngoài ao nước tối tăm, phẳng lặng. “Nếu con bé nổi trên mặt nước, thì đó là có mụ phù thủy trú trong nó,” mẹ nói. “Còn nếu chìm thì nó vô tội. Được rồi, xem nào...”
“Đừng!” Tôi thét váng, miệng mồm ngoác cả ra và lời lẽ tự động phọt ra nhanh hơn tôi kịp nghĩ. “Đừng làm thế mẹ ơi. Con bé là con của Ellie mà.”
Trong một tích tắc, tôi tưởng mẹ tôi sẽ thả cho con bé rơi xuống, nhưng rồi mẹ chỉ mỉm cười và lại ôm bé vào lòng, đoạn dịu dàng hôn lên trán nó. “Tất nhiên đây là con của Ellie rồi, con trai à. Con không thể chỉ nhìn vào nó mà nhận ra điều đó hay sao? Nhưng thôi, "thả bơi" là một phép thử chỉ có bọn ngu mới thực hiện và dù sao cũng chẳng ích lợi gì. Thông thường bọn họ sẽ trói hai tay của người đàn bà tội nghiệp vào hai chân rồi quẳng bà ta xuống vùng nước sâu, tĩnh lặng. Nhưng việc bà ta chìm hay nổi tùy thuộc vào vận may lẫn loại hình cơ thể của bà ấy. Chẳng liên quan gì đến pháp thuật phù thủy cả.”
“Thế còn chuyện con bé cứ trừng trừng nhìn Alice thì sao ạ?” tôi hỏi.
Mẹ mỉm cười lắc lắc đầu. “Mắt của trẻ sơ sinh chưa có khả năng chú mục bình thường,” mẹ giảng giải. “Chắc có lẽ chỉ là do ánh sáng từ ngọn nến làm con bé chú ý. Con còn nhớ không – lúc ấy Alice đang ngồi gần ngọn nến mà. Còn sau đấy, mỗi lần Alice đi ngang qua, mắt của đứa trẻ bị cuốn hút theo sự thay đổi của ánh sáng. Không có gì cả đâu. Chẳng gì phải lo ngại cả.”
“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu con của Ellie đã bị ám thật rồi?” tôi vẫn khăng khăng. “Lỡ trong người con bé có thứ gì đó mà chúng ta không thể nhìn thấy thì sao ạ?”
“Nghe này con trai, mẹ đã tự tay đỡ đẻ cho cả thiện lẫn ác vào trong thế giới này, và nếu là ác thì chỉ cần nhìn qua là mẹ biết ngay. Đây là một đứa bé tính thiện và trong nó chẳng có thứ gì để ta phải lo lắng. Chẳng có gì cả.”
“Thế thì chẳng phải là lạ lắm sao khi con của Ellie phải được sinh ra cùng thời điểm mà Mẹ Malkin chết đi ạ?”
“Cũng không hẳn,” mẹ tôi trả lời. “Nhiều lúc đấy là quy luật cuộc sống thôi. Đôi khi, khi một điều ác nào đó rời bỏ thế giới này thì một điều thiện sẽ xuất hiện thế chỗ vào đấy. Trước đây mẹ đã từng chứng kiến chuyện ấy.”
Dĩ nhiên, tôi nhận ra là mẹ tôi chưa khi nào tính đến chuyện thả trôi con bé mà chỉ là đang cố đánh động chút lý trí trong tôi mà thôi. Tuy thế, khi chúng tôi băng qua sân quay trở vào, hai đầu gối tôi vẫn còn run lẩy bẩy khi nghĩ đến việc ấy. Chỉ đến khi đấy, khi chúng tôi đến trước cửa nhà bếp thì tôi mới sực nhớ đến một chuyện.
“Thầy Gregory có cho con một cuốn sách nho nhỏ nói về thuật ám xác,” tôi bảo. “Thầy bảo con phải đọc cho kỹ, nhưng vấn đề là, sách được viết bằng tiếng La Tinh, còn con thì đến giờ phút này mới chỉ học được có ba bài về tiếng La Tinh thôi.”
“Cũng chẳng phải thứ tiếng mà mẹ thích thú,” mẹ vừa nói vừa dừng bước ngay thềm cửa. “Để mẹ xem mình có thể làm được gì nhưng phải chờ cho đến khi mẹ quay lại đã – mẹ đang đợi cho tối nay mình sẽ được mời đi. Còn trong lúc này, tại sao con không đi hỏi Alice ấy? Biết đâu con bé có thể giúp được.”
Mẹ nói đúng về việc được cho gọi đi. Chỉ chớm sau nửa đêm thì một cỗ xe ngựa chạy đến đón mẹ, mấy con ngựa đổ mồ hôi ròng ròng. Dường như là vợ của một bác nông dân nào đó đang trải qua thời khắc rất khó khăn và đã đau đẻ hơn một ngày một đêm rồi. Đường đi đến đấy cũng khá xa nữa, khoảng hai mươi dặm về phía nam. Như thế có nghĩa là mẹ sẽ đi vắng hai ba ngày gì đấy hoặc hơn.
Tôi thực tình không muốn nhờ Alice giúp đỡ phần tiếng La Tinh. Bạn thấy đấy, chắc là Thầy Trừ Tà sẽ không đồng ý đâu. Gì thì gì, đây là một cuốn sách từ thư viện nhà thầy, và thầy sẽ không thích cái ý tưởng là Alice sẽ động vào nó. Nhưng thôi, tôi còn lựa chọn nào khác đâu cơ chứ? Từ khi trở về nhà, tôi cứ suy nghĩ mãi về Mẹ Malkin ngày mỗi nhiều hơn và không thể gạt mụ ra khỏi đầu óc mình. Đấy chỉ như là một thứ linh tính, chỉ là một cảm nhận, nhưng tôi cảm giác là mụ ta ở đâu đấy ngoài kia trong bóng tối và cứ mỗi đêm qua đi mụ lại tiến đến mỗi gần hơn.
Thế là đêm hôm sau, sau khi Jack và Ellie đã đi nằm, tôi đến gõ nhè nhẹ lên cửa phòng Alice. Tôi không thể hỏi nhờ Alice việc này vào ban ngày vì cô luôn bận rộn, vả lại lỡ Ellie hay Jack mà có nghe thấy thì họ sẽ chẳng thích đâu. Nhất là khi Jack không ưa gì công việc trừ tà.
Phải đến lượt gõ thứ hai Alice mới mở cửa ra. Trước đấy tôi đã lo biết đâu cô gái đã ngủ mất rồi, nhưng Alice vẫn chưa thay quần áo làm tôi cứ chẳng đặng đừng mãi liếc xuống đôi giày mũi nhọn. Trên bàn trang điểm vẫn còn một ngọn nến đặt sát gương. Ngọn nến chỉ mới vừa được thổi tắt đi thôi – nến vẫn còn tỏa khói.
“Tớ vào chút được không?” tôi vừa hỏi vừa giơ cao cây nến của mình để soi rõ mặt Alice từ trên cao xuống. “Tớ có việc cần phải nhờ cậu.”
Alice gật đầu ra hiệu cho tôi vào trong phòng rồi đóng cửa lại.
“Tớ có cuốn sách cần đọc, nhưng nó lại được viết bằng tiếng La Tinh. Mẹ tớ bảo biết đâu cậu lại giúp được.”
“Thế sách đâu?” Alice hỏi.
“Trong túi của tớ ấy. Chỉ là cuốn sách nhỏ thôi. Với bất kỳ ai biết tiếng La Tinh thì chẳng mất lắm thời gian để đọc hết nó đâu.”
Alice thở hắt ra một hơi thật dài, mỏi mệt. “Tình hình là hiện giờ tớ đã bận rộn lắm rồi,” cô cằn nhằn. “Sách về gì thế?”
“Thuật ám xác. Thầy Gregory nghĩ Mẹ Malkin có thể quay lại trả thù tớ và mụ ta có thể sử dụng thuật ám xác.”
“Thế thì ta hãy coi nào,” Alice chìa tay ra. Tôi đặt cây nến của mình cạnh nến của Alice, đoạn cho tay vào túi quần lôi ra cuốn sách nhỏ. Alice coi lướt qua các trang mà chẳng nói lời nào.
“Cậu có đọc được không?” tôi hỏi.
“Chẳng thấy có lý do gì là không được. Lizzie đã dạy cho tớ và dì ta rành tiếng La Tinh lắm.”
“Vậy cậu sẽ giúp tớ nhé?”
Alice không trả lời. Thay vào đấy cô cầm sách dí sát mặt mình và khụt khịt ầm ĩ. “Cậu có chắc cuốn sách này có ích gì không đấy?” cô gái hỏi. “Cuốn này à, được viết ra bởi một cha xứ, mà cha xứ thường chẳng biết nhiều đến thế đâu.”
“Thầy Gregory gọi đây là một ấn bản “chính thức” tôi đáp, có nghĩa đây là cuốn sách hay nhất từng được viết về chủ đề này.”
Khi đấy Alice ngước nhìn lên khỏi sách, và ngạc nhiên làm sao là hai mắt cô gái ngùn ngụt giận dữ. “Tớ biết chính thức nghĩa là gì mà. Cậu nghĩ tớ ngu ngốc hay sao thế? Tớ à, đã học tập hàng năm trời, trong khi cậu thì chỉ mới bắt đầu thôi. Lizzie có hàng đống sách nhưng đều cháy sạch cả rồi. Tất cả đã bị thiêu rụi trong ngọn lửa.”
Tôi làu bàu lời xin lỗi và Alice nhìn tôi mỉm cười.
“Vấn đề là,” cô nói tiếp, giọng đột nhiên dịu lại, “đọc cuốn này sẽ mất thời gian và lúc này tớ mệt quá nên không thể bắt đầu được. Ngày mai mẹ cậu vẫn chưa về nên tớ cũng sẽ bận rộn như thế thôi. Bà chị dâu của cậu đã hứa sẽ giúp nhưng hầu như chị ấy chỉ sẽ bận rộn với đứa bé, và việc nấu nướng dọn dẹp chiếm gần hết cả ngày của tớ. Nhưng nếu cậu chịu giúp...”
Tôi thật chẳng biết nói sao. Tôi sẽ phụ việc cho Jack nên cả tôi cũng sẽ chẳng có lắm thời gian. Vấn đề là, đàn ông không bao giờ nấu nướng hay dọn dẹp gì và đấy không phải chỉ là kiểu của mỗi nông trại nhà chúng tôi thôi đâu. Nhà nào trong Hạt này cũng như thế cả. Đàn ông làm việc trên đồng, ở ngoài trời, mặc cho thời tiết có thế nào, rồi khi họ vào nhà, phụ nữ đã dọn sẵn thức ăn nóng sốt chờ đợi trên bàn. Thời điểm duy nhất chúng tôi có phụ tay vào bếp là ngày Giáng sinh, khi đấy chúng tôi rửa bát đĩa như là một hành động chiêu đãi đặc biệt dành cho mẹ.
Cứ như thể là Alice có khả năng đọc thấu suy nghĩ của tôi vì nụ cười của cô gái càng thêm tươi tắn. “Sẽ chẳng khó khăn gì đâu nhỉ?” cô hỏi. “Phụ nữ có giúp cho gà ăn và phụ thu hoạch mùa màng cơ mà, thế thì tại sao đàn ông lại không giúp tí việc trong bếp chứ? Cậu chỉ cần phải giúp tớ rửa bát, thế thôi. Và vài chiếc quần tớ cần phải gột sạch trước khi bắt tay vào nấu nướng.”
Thế là tôi đồng ý với những gì Alice muốn. Còn lựa chọn nào khác đâu? Tôi chỉ hy vọng là Jack sẽ không bắt gặp tôi làm thế. Anh ấy thì sẽ không khi nào thông hiểu cho.
Tôi thức dậy thậm chí còn sớm hơn bình thường và cố gắng chà xong mấy chiếc quần trước khi Jack xuống dưới nhà. Sau đấy tôi nấn ná ăn sáng thật lâu, cố ăn thật chậm, không giống như tôi ngày thường chút nào và chừng đó cũng đủ khiến Jack liếc xéo nghi hoặc. Sau khi anh ấy đã đi ra đồng, tôi rửa mấy chiếc nồi nhanh hết mức có thể rồi bắt tay vào việc lau khô chúng. Lẽ ra tôi phải đoán được chuyện gì sẽ xảy ra chứ vì Jack chưa khi nào có lắm nhẫn nại.
Anh ấy đi vào trong vườn vừa nhiếc móc vừa chửi rủa và khi nhìn thấy tôi qua cửa sổ, gương mặt anh cau có vì không tin nổi vào mắt mình. Anh nhổ toẹt xuống sân và đi vòng ra sau giật mạnh cánh cửa bếp ra.
“Khi nào xong xuôi hết rồi thì còn có những việc của đàn ông cần phải hoàn tất đấy,” Jack nói mỉa. “Và chú có thể bắt đầu bằng việc sửa lại mấy chuồng heo đi. Ngày mai Mõm Heo sẽ đến. Có năm con lợn cần được làm thịt và chúng ta không muốn tốn hết thời gian đi lùa mấy con đi lạc đâu.”
Mõm Heo là tên giễu chúng tôi đặt cho người lái lợn, mà Jack nói cũng đúng. Mấy con lợn thường bị hoảng loạn khi Mõm Heo ra tay và nếu có chỗ nào yếu trên hàng rào thì chắc chắn đám lợn sẽ tìm ra.
Jack đùng đùng quay lưng bỏ đi và rồi đột ngột lớn tiếng chửi thề. Tôi đi ra cửa coi có chuyện gì xảy ra. Anh ấy đã vô tình giẫm lên một con cóc to sụ, nghiền nó thành ra nhão nhoét. Người ta cho việc giết chết một con cóc hay con ếch là điềm gở thế nên Jack lại nguyền rủa, cau mày đến tợn, làm cho cặp chân mày đen thui rậm rì của anh ấy châu dính vào nhau. Anh đá văng con cóc chết xuống rãnh cống rồi bỏ đi, vừa đi vừa lắc đầu. Tôi không thể đoán ra anh đã mắc phải chứng gì. Trước giờ Jack chưa từng xấu tính đến thế.
Tôi vẫn ở lại nhà lau cho khô đến chiếc nồi cuối cùng – vì anh ấy đã bắt gặp rồi, thôi thì tôi làm nốt vậy. Hơn nữa, đám lợn thì hôi hám nên tôi cũng chẳng mong gì công việc mà Jack đã giao.
“Đừng có quên cuốn sách đấy,” khi mở cửa bước ra ngoài tôi còn cố dặn lại Alice, nhưng cô nàng chỉ cười cười là lạ.
Mãi đến khuya hôm ấy, tôi mới lại có cơ hội nói chuyện riêng với Alice, sau khi Jack và Ellie đã đi ngủ. Tôi nghĩ mình phải ghé qua phòng cô ấy lần nữa, nhưng thay vào đấy cô gái lại xuống bếp, mang theo cuốn sách và tự mình ngồi vào chiếc ghế đu gần đám tro lò sưởi của mẹ.
“Cậu đấy, đã gột rất sạch mấy chiếc quần kia. Hẳn cậu phải rất thiết tha muốn biết trong cuốn này có gì,” Alice vừa nói vừa gõ gõ lên gáy cuốn sách.
“Nếu mụ ta quay lại, tớ muốn mình sẵn sàng. Tớ cần biết mình có thể làm gì. Thầy Trừ Tà bảo có lẽ mụ ta sẽ quỷ quyệt. Cậu có biết về điều ấy không?”
Hai mắt Alice mở lớn và cô gái gục gặc.
“Thế nên tớ phải chuẩn bị cho tốt. Nếu trong sách ấy có gì có thể giúp đỡ được thì tớ cần phải biết.”
“Vị cha xứ này không giống những cha xứ khác,” Alice bảo, tay chìa cuốn sách ra cho tôi. “Đúng là ông ta biết rõ hầu hết các thứ cần biết. Lizzie sẽ thích cuốn sách này còn hơn là món bánh nửa đêm nữa đấy.”
Tôi nhét cuốn sách trở lại túi quần rồi kéo một chiếc ghế đẩu đến bên kia lò sưởi, đối mặt với những gì còn sót lại của đám lửa. Đoạn tôi bắt đầu căn vặn Alice. Thoạt tiên việc này khá vất vả. Alice không tự nguyện nói ra gì nhiều, và những gì tôi cố moi ra được từ cô chỉ làm cho tôi thấy khó khăn hơn mà thôi.
Tôi mở đầu với cái tựa đề kỳ lạ của cuốn sách: Kẻ Bị Nguyền Rủa, Kẻ Xây Xẩm và Kẻ Tuyệt Vọng. Thế nghĩa là gì? Sao lại gọi cuốn sách như thế?
“Tên đầu tiên chỉ là lời rêu rao của cha xứ,” Alice đáp, khóe miệng trễ xuống vẻ không tán thành. “Họ chỉ dùng từ ngữ ấy để chỉ những người có hành động khác biệt. Chỉ những người như mẹ cậu, thường không đi nhà thờ và không cầu kinh cho đúng. Những người không giống như bọn họ. Những người thuận tay trái,” Alice nói và mỉm cười đầy ngụ ý với tôi.
“Tên thứ hai ít nhiều dùng được hơn,” cô gái nói tiếp. “Một thân xác vừa mới bị ám thường giữ thăng bằng rất kém. Cái xác ấy cứ té mãi thôi. Cậu biết đấy, cũng phải mất thời gian để người ám xác đàng hoàng chui vào và yên ổn vừa vặn trong thân thể mới của nó. Cũng khiến cho thân thể ấy nóng tính ghê lắm. Một người bình tĩnh và trầm tính cũng có thể nổi đóa mà không báo trước. Thế nên đấy cũng là một cách giúp cậu phân định.
“Cuối cùng, với tên thứ ba thì dễ rồi. Một phù thủy khi đã từng có một thân thể như người khỏe mạnh rồi thì sẽ tuyệt vọng muốn ám một cái xác khác. Và rồi, một khi đã thành công, mụ ta sẽ tuyệt vọng đeo bám vào đấy. Sẽ chẳng từ bỏ trước khi phải chiến đấu sống còn đâu. Mụ ta sẽ làm mọi chuyện. Chuyện gì cũng làm. Đấy là lý do vì sao thuật ám xác nguy hiểm đến vậy.”
“Nếu như mụ ta đến đây thì mụ ta có thể là ai nhỉ?” tôi hỏi. “Nếu quỷ quyệt, thì mụ ta sẽ cố ám vào ai nào? Liệu có thể là tớ không? Mà có thế thì mụ sẽ vẫn đả thương tớ chứ?”
“Nếu được thì mụ đã làm rồi,” Alice trả lời. “Nhưng mà dễ gì, vả lại cậu còn là người đặc biệt như thế nữa chứ. Mụ ta cũng thích ám cả tớ nữa đấy, nhưng tớ sẽ chẳng cho mụ ta có cơ hội nào đâu. Không đâu, mụ ta sẽ chọn lấy người yếu nhất. Người dễ nhất.”
“Là con của Ellie chăng?”
“Không, làm thế chẳng có lợi gì cho mụ. Thế thì mụ phải chờ cho đến khi con bé lớn hẳn. Mẹ Malkin chẳng bao giờ kiên nhẫn đến thế đâu, và bị kẹt trong cái hố của Lão Gregory càng làm cho mụ thiếu kiên nhẫn hơn nữa. Nếu mụ đến đây để làm hại cậu, trước hết mụ sẽ tìm cho mình một thân xác cường tráng mạnh khỏe.”
“Thế thì Ellie chăng? Mụ sẽ chọn Ellie rồi!”
“Thế cậu không biết gì sao?” Alice hỏi, lắc lắc đầu vẻ không thể tin nổi. “Ellie mạnh lắm. Chị ấy sẽ rất khó mà bị ám. Không, đàn ông dễ bị ám hơn nhiều. Nhất là người mà trái tim luôn làm chủ khối óc. Người có khả năng nổi cơn cuồng nộ mà chẳng cần phải suy nghĩ gì.”
“Jack ư?”
“Chắc chắn phải là Jack. Cậu cứ nghĩ xem bị một người to khỏe như Jack đuổi theo mình thì sẽ như thế nào. Nhưng cuốn sách này nói đúng một chuyện. Đối phó với một thân thể vừa mới bị ám sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tuy là tuyệt vọng đấy nhưng cũng xây xẩm nữa.”
Tôi lôi sổ ghi chép ra và viết lại mọi điều chừng như quan trọng. Alice nói không nhanh như Thầy Trừ Tà, nhưng sau một chập thì cô bé bắt lại được nhịp của mình khiến cổ tay tôi chẳng mấy chốc là đau nhói. Khi nói đến việc cực kỳ quan trọng – làm thế nào để đối phó với kẻ tuyệt vọng – thì điều được nhắc đi nhắc lại lắm lần là linh hồn nguyên bản vẫn còn vướng trong thân thể. Thế nên nếu như ta làm hại đến thân thể ấy thì cũng hại luôn cả linh hồn vô tội ấy nữa. Do vậy, chuyện giết chết thân thể bị ám để tống khứ kẻ ám thì tội lỗi ngang ngửa việc sát nhân.
Thật ra đoạn này trong sách khá là đáng thất vọng: dường như bạn chẳng thể làm được gì nhiều. Vốn là cha xứ nên tác giả cuốn sách này nghĩ rằng một buổi lễ trừ yêu, sử dụng nến và nước thánh, là cách tốt nhất để trục kẻ ám xác ra mà giải phóng cho nạn nhân, nhưng tác giả cũng thừa nhận rằng không phải cha xứ nào cũng làm được chuyện này và rất ít người thực hiện thành thạo. Tôi thấy hình như một số cha xứ làm được chuyện này chắc phải là đứa con trai thứ bảy của người con thứ bảy, và mấu chốt là ở đấy.
Xong xuôi, Alice bảo rằng mình mệt và lên lầu đi ngủ. Tôi cũng cảm thấy buồn ngủ nữa. Tôi đã quên mất công việc nông trại mệt nhọc đến thế nào và người tôi đau như dần từ đầu đến ngón chân. Khi đã lên đến phòng mình rồi, tôi sung sướng được thả mình xuống giường, chỉ mong được chợp mắt. Nhưng mấy con chó dưới sân bắt đầu sủa váng lên.
Lo rằng hẳn có thứ gì đó đánh động đám chó, tôi bèn mở cửa sổ ra nhìn về phía Đồi Treo Cổ, hít vào một hơi sâu không khí buổi đêm để ổn định tinh thần và làm sáng sủa đầu óc. Dần dà, mấy con chó im tiếng đi và rốt cuộc cũng đồng loạt ngừng sủa.
Tôi vừa định đóng cửa sổ lại thì mặt trăng ló dạng sau đám mây. Ánh trăng có thể soi rõ sự thật về vạn vật – Alice từng bảo với tôi như thế – như là cái bóng to lớn của tôi đã mách cho Lizzie Xương Xẩu biết điều khác biệt về tôi. Mặt trăng hôm nay chưa tròn hẳn mà chỉ là một bóng trăng tai tái teo tóp thành trăng lưỡi liềm, nhưng nó cũng đã soi cho tôi thấy một điều mới lạ, một điều mà nếu không có ánh trăng thì chẳng thể nhìn ra được. Nhờ ánh trăng, tôi có thể thấy một vệt dài màu bạc thấp thoáng đang ngoằn ngoèo bò xuống từ Đồi Treo Cổ. Vệt màu bạc ấy luồn qua hàng rào, băng qua đồng cỏ cánh bắc rồi vượt qua ruộng rơm phía đông cho đến khi biến khỏi tầm mắt ở đâu đó sau kho cỏ. Khi ấy, tôi nghĩ đến Mẹ Malkin. Tôi đã nhìn thấy vệt bạc này trong cái đêm tôi đẩy mụ xuống sông. Giờ đây lại thêm một vệt khác giống y chang và nó đã tìm đến tôi.
Tim tôi đập thình thịch trong ngực, tôi nhón chân đi xuống cầu thang và lẻn ra ngoài qua cửa hậu, cẩn thận đóng cửa lại sau lưng. Mặt trăng đã lẩn sau đám mây, cho nên khi tôi vòng ra sau khu chuồng cỏ thì vệt bạc đã biến mất, nhưng vẫn còn đó bằng chứng rành rành rằng một thứ gì đó đã từ trên đồi di chuyển xuống đây, về phía căn nhà chính của nông trại. Vạt cỏ ẹp cả xuống, như thể một con ốc sên khổng lồ vừa mới trườn qua chúng.
Tôi chờ cho mặt trăng hiện ra trở lại để mình có thể kiểm tra qua khu vực nền lát đá sau khu chuồng cỏ. Vài phút sau, đám mây trôi đi giúp tôi nhìn thấy điều thực sự làm tôi kinh khiếp. Vệt màu bạc lấp lánh dưới ánh trăng và hướng nó di chuyển thì không lẫn vào đâu được. Nó vòng tránh khỏi chuồng lợn và bò ngoằn ngoèo thành một vòng cung rộng qua mé kia kho chứa cỏ đến rìa sân bên kia. Sau đấy, nó di chuyển về phía nhà chính, kết thúc ngay dưới cửa sổ phòng Alice, nơi cánh cửa hầm bằng gỗ che chắn những bậc thang dẫn xuống hầm rượu.
Vài thế hệ trước, bác nông dân sống ở đây từng nấu bia để cung cấp cho những nông trại lân cận và cả cho vài nhà nghỉ nữa. Do thế mà dân trong vùng gọi nông trại của chúng tôi là “Nông Trại Nhà Ủ Bia” trong khi chúng tôi chỉ gọi đây là “nhà”. Những bậc thang được dựng lên ở đấy để những thùng bia có thể được mang ra mang vào mà không phải băng qua khu nhà chính.
Cánh cửa hầm vẫn còn nguyên tại chỗ che đậy mấy bậc thang, một ổ khóa hoen rỉ to tướng cài hai cánh cửa hầm lại với nhau vẫn ở nguyên vị trí, nhưng giữa hai cánh cửa ấy có một khe hở, nơi mà mép hai miếng gỗ không khép khít được vào nhau. Khe hở này không lớn hơn ngón tay cái của tôi, nhưng vệt bạc ấy kết thúc chính xác tại đấy và tôi biết, cho dù đó là thứ gì vừa trườn về phía đấy thì cũng không biết bằng cách nào đã chuồi qua khe hở bé xíu kia. Mẹ Malkin đã sống lại và trở nên quỷ quyệt, thân thể mụ mềm oặt và dẻo quẹo đủ để chui qua những khe hở nhỏ bé nhất.
Mụ ta đã chui vào hầm rượu rồi.
Dù gia đình tôi chưa từng sử dụng hầm rượu nhưng tôi nhớ về nó khá rõ. Hầm rượu có sàn nhà bằng đất và hầu như chất đầy thùng bia cũ. Các vách tường trong nhà tuy dày nhưng lại rỗng ruột, nghĩa là mụ ta sẽ mau chóng có mặt ở bất cứ đâu giữa những bức tường, ở bất cứ nơi nào trong nhà.
Tôi liếc lên, trông thấy một ánh nến lóe lên từ cửa sổ phòng Alice. Cô ấy vẫn còn thức. Tôi vào trong nhà, chẳng mấy chốc sau đã đứng ngoài cửa phòng ngủ của Alice. Gõ cửa phải kheo khéo sao cho vừa đủ to để Alice biết rằng tôi đang ở đấy nhưng không làm cho những người khác thức giấc. Nhưng khi vừa kề nắm tay gần đến cánh cửa chuẩn bị gõ thì tôi nghe thấy âm thanh từ trong phòng.
Tôi có thể nghe ra tiếng Alice. Dường như cô đang nói chuyện với ai đó.
Tuy chẳng thích những gì mình đang nghe thấy nhưng tôi vẫn gõ cửa. Tôi chờ một chập, nhưng rồi Alice không ra mở cửa, nên tôi áp tai vào cánh cửa. Cô gái có thể nói chuyện với ai trong phòng mình được chứ? Tôi biết Jack và Ellie đã đi ngủ mất rồi, vả lại tôi chỉ có thể nghe thấy một giọng nói thôi và đó là giọng của Alice. Nhưng giọng ấy nghe như hơi khác. Nó gợi cho tôi nhớ đến một âm thanh trước đây tôi đã từng nghe. Rồi đột nhiên nhớ ra đấy là gì, tôi giật phắt tai ra khỏi tấm gỗ như thể tai mình vừa bị bỏng và tôi bước một bước thật dài tránh khỏi cánh cửa.
Giọng của Alice đang cao vút lên rồi hạ thấp xuống, giống như giọng của Lizzie Xương Xẩu lúc mụ ta đứng bên trên miệng hố, mỗi tay cầm một lóng xương ngón cái be bé trắng nhởn.
Hầu như không kịp nhận ra mình đang làm gì, tôi chộp lấy tay nắm cửa, vặn tay nắm và mở rộng cửa ra.
Alice, môi vẫn còn mấp máy khép mở, đang lầm rầm cầu kinh trước tấm gương. Cô đang ngồi ghé bên mép chiếc ghế có lưng tựa thẳng đứng, mắt trừng trừng nhìn vào tấm gương trên bàn trang điểm qua đầu ánh nến. Tôi hít một hơi thật sâu, rồi nhích đến gần để có thể nhìn kỹ hơn.
Vì lúc này trong Hạt đang là mùa xuân và còn là khi tối trời nữa nên căn phòng âm âm lành lạnh, nhưng mặc thế, chân mày của Alice vẫn toát mồ hôi thành những giọt to tướng. Thậm chí ngay lúc tôi đang nhìn đây, hai giọt mồ hôi cùng lúc chạy tọt vào mắt trái của cô và rồi chảy xuống má trông như nước mắt. Alice đang nhìn trân trân vào gương, hai mắt mở lớn, nhưng khi tôi gọi tên cô thì Alice đến chớp mắt cũng chẳng chớp.
Tôi tiến đến sau ghế và nhác thấy bóng đế nến bằng đồng phản chiếu trong gương, nhưng ôi kinh quá, gương mặt trong gương bên trên ngọn nến chẳng phải là mặt của Alice.
Đấy là một gương mặt già nua, hoang dại và chằng chịt nếp nhăn cùng mớ tóc sợi xám sợi bạc rủ xuống như tấm màn phủ qua hai bên má hốc hác. Là gương mặt của một thứ đã phải ở rất lâu trong lòng đất ẩm.
Lúc ấy, hai con mắt trong gương di chuyển, liếc qua trái để nhìn vào mắt tôi. Hai con mắt ấy là hai đốm lửa. Dù là gương mặt ấy đang nhăn nhó cười, nhưng đôi mắt lại phừng phừng lửa phẫn nộ và căm ghét.
Không nghi ngờ gì nữa. Đấy là gương mặt của Mẹ Malkin.
Chuyện gì đang xảy ra thế này? Phải chăng Alice đã bị ám? Hay là bằng cách nào đó cô đang sử dụng gương để nói chuyện với Mẹ Malkin?
Chẳng màng đến nghĩ ngợi gì, tôi vồ lấy chân nến và vụt đế nến nặng trịch vào gương, tấm gương bùng vỡ kèm theo tiếng răng rắc thật lớn, sau đấy là một cơn mưa lấp loáng, loảng xoảng của những mảnh gương vỡ. Khi tấm gương bể vụn cũng là lúc Alice thét lên đinh tai nhức óc.
Tiếng thét rít lên ấy là thứ tiếng kinh khủng nhất mà bạn có thể tưởng tượng được. Tiếng thét chất chứa nỗi đau đớn như tra tấn và khiến tôi nhớ đến thứ âm thanh đôi khi con lợn rít lên khi nó bị làm thịt. Nhưng tôi chẳng thấy tội nghiệp gì cho Alice cả, cho dù bây giờ cô đang khóc lóc và bứt tóc bứt tai, hai mắt dại đi đầy nỗi kinh hoàng.
Rồi tôi nhận ra căn nhà nhanh chóng tràn ngập những tiếng động khác nữa. Trước hết là tiếng khóc ré từ bé con của Ellie; tiếng thứ hai là giọng nam trầm đục đang nguyền rủa chửi bới; rồi sau cùng là tiếng đôi ủng to kệch rầm rập đi xuống cầu thang.
Jack điên tiết xông vào phòng. Anh nhìn một cái qua tấm gương vỡ rồi bước về phía tôi và giơ nắm đấm lên. Chắc anh ấy nghĩ lỗi là do tôi, vì Alice vẫn đang còn la hét, trong khi tôi đang cầm chân nến trong tay, rồi mấy khớp ngón tay của tôi còn bị trầy xước do miểng gương bay trúng vào.
Vừa khi ấy thì Ellie bước vào phòng. Tay phải chị ấy đang ẵm em bé lúc này vẫn khóc vang làng vang xóm, nhưng tay còn lại của chị đã chộp lấy Jack cho đến khi anh ấy nới lỏng nắm đấm ra và hạ tay xuống.
“Đừng mà Jack,” Ellie khẩn khoản. “Làm thế được ích gì?”
“Tao không thể tin là mày đã làm thế đấy,” Jack quắc mắt bảo tôi. “Mày có biết tấm gương ấy cổ xưa đến thế nào không hả? Giờ thì mày nghĩ bố sẽ nói gì nào? Bố sẽ cảm thấy thế nào đây khi ông ấy nhìn thấy chuyện này hử?”
Chẳng trách sao Jack lại giận như thế. Đánh thức mọi người dậy đã là tồi tệ lắm rồi, nhưng chiếc bàn trang điểm ấy là kỷ vật của bà nội chúng tôi. Vì bố đã cho tôi chiếc hộp nhóm lửa kia rồi, nên chiếc bàn ấy là thứ cuối cùng bố sở hữu mà đã từng thuộc về gia đình nhà bố.
Jack bước hai bước về phía tôi. Ngọn nến chưa tắt hẳn khi tôi đập vỡ tấm gương nhưng khi anh ấy quát lên thì ngọn lửa bắt đầu chấp chới.
“Sao mày lại làm thế? Mày mắc phải cái chứng gì rồi thế?” anh ấy rống lên.
Tôi có thể nói được gì đây? Thế nên tôi chỉ nhún vai, đoạn cúi gằm nhìn chằm chặp xuống ủng của mình.
“Mà mày đang làm gì trong phòng này mới được?” Jack hỏi dồn.
Tôi không trả lời. Có nói ra gì thì chỉ làm cho tình hình xấu hơn mà thôi.
“Từ rày trở đi mày phải ở yên trong phòng mày đi nhé,” Jack lại quát. “Tao đang rất muốn tống khứ hai đứa chúng mày đi ngay đấy.”
Tôi liếc qua Alice, cô vẫn đang còn ngồi trên ghế, hai tay ôm đầu. Cô đã thôi không khóc nữa nhưng toàn thân vẫn còn run lập cập.
Khi tôi quay nhìn lại, cơn giận của Jack đã nhường chỗ cho vẻ cảnh giác. Anh ấy đang nhìn sang Ellie, lúc này dường như loạng choạng. Trước khi Jack kịp chạy đến đỡ thì Ellie đã mất thăng bằng và ngã tựa vào tường. Trong đôi chốc, Jack quên béng vụ tấm gương khi anh ấy nhặng lên lo cho Ellie.
“Em không biết chuyện gì xảy đến cho em nữa,” Ellie thốt lên vẻ cực kỳ hoang mang. “Tự nhiên em thấy váng cả đầu. Ôi Jack! Jack ơi! Em sém chút là làm rớt con bé rồi!”
“Em đâu có làm thế và con bé vẫn còn an toàn đây. Em đừng có lo quá. Này, để anh đỡ lấy nó...”
Khi đã ẵm lấy em bé trong tay rồi, Jack bình tĩnh trở lại. “Giờ thì chú dọn dẹp chỗ này đi,” anh ấy bảo tôi. “Sáng mai ta hẵng nói về chuyện này.”
Ellie đi đến bên giường đặt tay lên vai Alice. “Alice này, em xuống dưới nhà một chút cho Tom dọn dẹp nào,” chị ấy bảo. “Chị sẽ pha nước cho chị em mình cùng uống.”
Loáng sau, mọi người đều đã đi xuống bếp, để mặc tôi ở lại thu dọn những mảnh gương vỡ. Sau đấy chừng mươi phút, chính tôi cũng phải xuống dưới nhà lấy chổi và đồ hốt rác. Mọi người đang ngồi quanh bàn bếp nhấm nháp trà, em bé nằm trong vòng tay của Ellie. Không ai nói gì và cũng chẳng ai mời tôi ngụm trà nào. Thậm chí chẳng ai thèm liếc về phía tôi.
Tôi trở lên trên gác thu dọn đống lộn xộn gọn hết mức có thể rồi trở về phòng mình. Tôi ngồi trên giường nhìn chăm chắm qua cửa sổ, lòng cảm thấy khủng hoảng và cô độc. Liệu Alice đã bị ám rồi chăng? Dù gì thì, đấy là gương mặt của Mẹ Malkin đã trừng mắt nhìn tôi từ trong gương mà. Nếu Alice đã bị ám thật, đứa bé và mọi người khác đều đang ở trong vòng nguy hiểm thực sự.
Nhưng cô ấy vẫn chưa hành động gì cả, tuy vậy Alice so với Jack thì còn nhỏ con lắm, thế nên chắc Mẹ Malkin phải ranh mãnh thôi. Mụ sẽ chờ cho mọi người đi ngủ hết. Tôi sẽ là mục tiêu chính. Hay có lẽ là đứa bé. Máu em bé sẽ giúp mụ tăng thêm sức mạnh.
Hay biết đâu tôi đã đập vỡ gương vừa đúng lúc? Liệu tôi có bẻ gãy được lời nguyền ngay vào lúc Mẹ Malkin chuẩn bị ám vào Alice không? Thêm một khả năng khác nữa là bấy lâu nay Alice vẫn nói chuyện với mụ phù thủy, qua tấm gương ấy. Nhưng dù là thế thì chuyện cũng đã quá tồi tệ rồi. Như vậy có nghĩa là tôi phải lo đối phó tới những hai kẻ thù.
Tôi cần phải làm gì đấy. Nhưng là gì đây? Khi đang ngồi đó, đầu óc tôi quay cuồng, cố gắng nghĩ thông suốt mọi chuyện thì có tiếng gõ nhẹ ngoài cửa phòng. Tôi đoán đấy là Alice nên tôi không thèm ra. Nhưng rồi có giọng nói khẽ khàng gọi tên tôi. Là Ellie thôi, nên tôi ra mở cửa.
“Chị em mình nói chuyện trong phòng được không?” chị ấy hỏi. “Chị không muốn đánh liều làm em bé thức giấc. Chị chỉ mới vừa dỗ cho con bé ngủ lại đây thôi.”
Tôi gật đầu, thế là Ellie bước vào phòng và cẩn thận đóng cửa lại sau lưng.
“Em không sao chứ?” chị ấy hỏi tôi, vẻ mặt trông rất quan tâm.
Tôi khổ sở gật đầu nhưng không dám ngẩng lên nhìn vào mắt chị.
“Thế em có muốn nói cho chị nghe về chuyện này không?” Ellie hỏi. “Em là một người tinh nhạy mà Tom, và hẳn em phải có lý do chính đáng lắm mới hành động như thế. Nói ra hết biết đâu lại làm cho em thấy dễ chịu hơn.”
Làm sao mà tôi nói ra sự thực được chứ? Ý tôi là, Ellie phải quan tâm chăm sóc cho một đứa bé, nên làm sao tôi có thể nói cho chị ấy biết rằng có một mụ phủ thủy thích uống máu trẻ con đang lởn vởn đâu đấy trong nhà được? Thế rồi tôi nhận ra, vì đứa bé, tôi phải nói cho chị ấy biết đôi điều. Chị ấy phải được biết tình tình đang xấu đi đến mức nào. Chị ấy phải trốn thôi.
“Có chút chuyện đấy, Ellie à. Nhưng em không biết phải nói sao cho chị biết nữa.”
Ellie mỉm cười. “Bắt đầu ngay từ đầu hay từ đâu cũng được mà...”
“Có thứ gì đó đang theo chân em đến tận đây,” tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Ellie. “Một thứ xấu xa đang muốn làm hại em. Đấy là lý do em đập vỡ tấm gương. Khi ấy Alice đang nói chuyện với tấm gương và...”
Hai mắt Ellie chợt lóe lên giận dữ. “Đi mà nói thế cho Jack biết đi, rồi chắc chắn em sẽ ăn đấm của anh ấy cho xem! Em nói là em đã mang theo thứ gì đó về tận đây, khi mà chị đang phải chăm lo cho một đứa bé con à? Sao em dám? Sao em lại có thể làm thế được chứ?”
“Em đã không biết chuyện gì sẽ xảy ra mà,” tôi phản đối. “Chỉ đến đêm nay em mới phát hiện ra. Ấy là vì sao giờ em đang kể cho chị nghe này. Chị phải rời khỏi nhà và mang em bé đến nơi an toàn. Đi ngay bây giờ đi trước khi quá muộn chị ạ.”
“Hả? Ngay bây giờ ư? Giữa đêm giữa hôm thế này à?”
Tôi gật đầu.
Ellie cương quyết lắc đầu. “Jack sẽ chẳng đi đâu. Anh ấy sẽ không chịu bị đuổi ra khỏi nhà ngay giữa đêm khuya như thế này. Chẳng gì đuổi anh ấy đi được. Không, chị sẽ chờ. Chị sẽ ở lại đây và sẽ mở lời khấn nguyện. Mẹ chị đã dạy chị thế. Mẹ chị bảo nếu ta cầu khấn thật thành tâm, thì chẳng có gì trong thế giới bóng tối có thể làm hại ta được. Mà chị thực lòng tin như thế. Mà này, có thể em cũng lầm thì sao, Tom nhỉ,” Ellie nói thêm. “Em còn nhỏ và mới chỉ bắt đầu học việc, cho nên biết đâu tình hình không đến nỗi xấu như em tưởng. Vả lại mẹ em sẽ quay về bất cứ lúc nào. Nếu không phải tối nay thì chắc chắn sẽ là tối mai. Mẹ sẽ biết cần phải làm gì. Từ đây đến đấy, em chỉ việc tránh xa phòng con bé ấy ra. Con bé ấy có điều gì đấy không ổn em ạ.”
Tôi vừa mở miệng định nói, định thử thuyết phục chị ấy rời đi thêm lần nữa, thì một vẻ cảnh giác đột nhiên hiện lên trên mặt Ellie, chị lảo đảo chống tay vào tường để khỏi ngã xuống.
“Giờ coi em đã làm gì kìa. Chị thấy như muốn té xỉu khi nghĩ đến những gì đang diễn ra ở đây.”
Ellie ngồi xuống giường tôi, đưa hai tay ôm lấy đầu trong chốc lát, trong khi ấy tôi chỉ đau khổ nhìn xuống chị, bụng chẳng biết phải làm hay phải nói gì.
Chập sau, Ellie lại đứng lên. “Chúng ta phải nói chuyện với mẹ em ngay khi bà quay về, nhưng đừng có quên là, từ giờ đến đấy em phải tránh xa Alice. Em hứa chứ?”
Tôi hứa, và Ellie mỉm cười quay trở về phòng mình.
Chỉ khi chị ấy đi rồi thì tôi mới ngớ ra...
Đã hai lần Ellie phải loạng choạng và nói là mình thấy váng đầu. Loạng choạng một lần thì có thể là vô tình. Chỉ là do mệt mỏi. Nhưng giờ thì những hai lần! Chị ấy bị xây xẩm. Ellie là kẻ xây xẩm và đấy là dấu hiệu đầu tiên của việc bị ám.
Tôi bắt đầu đi đi lại lại. Chắc là tôi lầm thôi. Không phải Ellie! Không thể nào là Ellie được. Có lẽ chị ấy chỉ mệt thôi. Dù gì thì đứa bé buộc chị phải thức đêm quá nhiều. Nhưng Ellie là người cứng rắn và khỏe mạnh. Bản thân chị cũng được nuôi lớn trong nông trại và không phải là loại người để chuyện ngoài thân lôi kéo mình sa ngã. Với lại, cả một cuộc nói chuyện về việc cầu nguyện ấy nữa. Có thể là chị nói thế để tôi không nghi ngại gì mình.
Nhưng chẳng phải Alice đã nói là ám vào Ellie khó lắm sao? Alice cũng từng bảo có khả năng là Jack, nhưng Jack thì chẳng có bất cứ dấu hiệu nào của chứng xây xẩm cả. Mặc dù thế, cũng không thể chối bỏ rằng Jack càng ngày càng thêm hung hăng nóng nảy! Nếu như Ellie mà không ngăn anh ấy lại thì hẳn anh đã đấm đầu tôi văng lìa khỏi cổ rồi.
Tuy vậy, dĩ nhiên là, nếu Alice đồng hội đồng thuyền với Mẹ Malkin, tất tần tật những gì cô nói đều nhằm đánh lạc hướng tôi. Tôi thậm chí còn không thể tin được những lời cô dịch ra từ sách của Thầy Trừ Tà nữa cơ! Cô có thể đã nói xạo với tôi suốt từ bấy đến giờ! Tôi không đọc được tiếng La Tinh nên chẳng có cách nào kiểm chứng lại những gì cô gái đã nói.
Tôi hiểu ra rằng có khả năng là bất cứ ai trong bọn họ. Một cuộc tấn công có thể xảy đến bất cứ lúc nào, trong khi tôi không sao lường được ai sẽ là người tấn công!
Nếu may mắn lắm thì mẹ sẽ quay về trước lúc rạng đông. Mẹ sẽ biết phải làm gì. Nhưng từ đây đến rạng đông còn một quãng thời gian dài đằng đẵng nên tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi phải thức để canh gác suốt cả đêm. Nếu người bị ám là Jack hay Ellie, thì tôi chẳng thể làm được gì. Tôi không thể vào phòng hai người được, vậy nên tất cả những gì tôi có thể làm là để mắt đến Alice.
Tôi đi ra ngoài, ngồi xuống cầu thang giữa cửa phòng Ellie và Jack với phòng tôi. Ngồi ở đây tôi có thể nhìn thấy cửa phòng Alice bên dưới. Nếu cô ấy ra khỏi phòng, ít nhất thì tôi còn ra lời cảnh cáo được.
Tôi quyết định rằng nếu mẹ chưa quay về, tôi sẽ rời khỏi nhà khi bình minh đến; rời xa mẹ rồi thì sẽ chỉ còn một cơ hội được giúp đỡ nữa thôi...
Đêm ấy dài dằng dặc, và thoạt đầu tôi nhảy dựng lên khi nghe thấy tiếng động khẽ nhất – một tiếng cầu thang cọt kẹt hay tiếng ván sàn trong một trong những căn phòng thoáng vọng đến. Nhưng dần dà tôi bình tâm trở lại. Căn nhà này đã cũ kỹ lắm rồi và đấy là những âm thanh tôi từng quá quen thuộc – những tiếng động bạn sẽ phải nghe thấy khi căn nhà chầm chậm chùng mình và hạ thấp nhiệt độ khi đêm về. Tuy nhiên, khi bình minh mỗi lúc một gần, tôi lại bắt đầu cảm thấy bất an.
Tôi bắt đầu thấy sợ những tiếng cào sồn sột lúc xa lúc gần từ bên trong các vách tường. Nghe như tiếng móng tay bấu vào phiến đá và không phải lúc nào cũng vọng ra từ một chỗ. Khi thì nó vọng đến từ cầu thang bên trên kia phía tay trái; khi thì từ bên dưới, gần với phòng của Alice. Âm thanh ấy mơ hồ đến nỗi tôi khó mà phân biệt được phải mình đang tưởng tượng hay không. Nhưng tôi bắt đầu cảm thấy lạnh, rất lạnh, là điềm báo cho tôi biết nguy hiểm đang ở gần.
Tiếp đến lũ chó lại sủa vang, và trong mấy phút sau đám gia súc khác cũng trở nên ầm ĩ, mấy con lợn lông lá eng éc lên thật lớn đến nỗi bạn sẽ nghĩ là tay lái lợn đã đến nơi rồi. Cứ như thể thế còn chưa đủ ồn, mớ âm thanh lộn xộn ấy làm cho đứa bé lại ré khóc.
Lúc này tôi lạnh đến nỗi toàn thân lẩy bẩy lật bật. Tôi phải hành động gì đấy thôi.
Lúc bên bờ sông, đối mặt với mụ phù thủy, hai tay tôi đã biết phải làm gì. Lần này thì hai chân tôi hoạt động nhanh hơn tôi kịp nghĩ. Tôi đứng phắt dậy và vụt chạy đi. Lòng hoảng kinh, tim đập thình thịch, tôi phóng xuống cầu thang, làm gia tăng thêm tiếng động. Tôi chỉ phải chạy ra ngoài và tránh xa mụ phù thủy. Chẳng còn việc gì khác quan trọng nữa. Toàn bộ lòng can đảm của tôi đã tiêu biến.