Chỉ ba ngày sau, chuyện đó xảy ra...
Thầy Trừ Tà sai tôi xuống làng đem thực phẩm về. Đấy là buổi chiều rất muộn, và khi tôi ra khỏi nhà thầy mang theo chiếc túi không thì bóng râm đã bắt đầu đổ dài.
Khi đến gần bậc bờ tường, tôi nhìn thấy ai đó đang đứng ngay rìa những rặng cây gần trên đầu con đường mòn nhỏ hẹp. Nhận ra đấy là Alice, tim tôi thốt nhiên tăng thêm một nhịp. Cô đang làm gì ở đấy? Sao cô không đi đến Pendle cho rồi? Với lại nếu cô còn ở đây, thế Lizzie thì sao?
Tôi bước chậm lại nhưng vẫn phải vượt qua cô gái để vào làng. Tôi đã có thể quay đầu lại mà đi theo con đường dài hơn, nhưng tôi không muốn cho cô cái cảm giác thỏa mãn nghĩ rằng tôi sợ cô. Dù là thế, khi đã leo qua bậc bờ tường rồi, tôi nép mình men theo lề trái của con đường mòn, đi thật gần rặng hàng rào táo gai, ngay trên mép con mương sâu hoắm chạy dọc theo dãy hàng rào ấy.
Alice đang đứng trong bóng tối, chỉ có hai mũi giày nhọn của cô là chĩa ra nơi có ánh mặt trời. Cô ngoắc tay ra hiệu cho tôi đến gần hơn nhưng tôi vẫn giữ khoảng cách, đứng cách xa cả ba bước dài. Sau tất cả những gì đã xảy ra, tôi chẳng còn tin tưởng cô lấy một tẹo, nhưng tôi vẫn thầm mừng khi thấy cô gái không bị hỏa thiêu hay bị ném đá đến chết.
“Tớ đến để chào tạm biệt,” Alice bảo, “với lại cũng để cảnh cáo cậu đừng có bao giờ đến gần Pendle. Đấy là nơi chúng tớ sẽ chuyển đến. Lizzie có gia đình sống ở đấy.”
“Tớ mừng vì cậu đã thoát được,” tôi vừa nói vừa dừng bước rồi quay sang đối diện với cô gái. “Tớ nhìn thấy cột khói khi người ta đốt nhà của cậu.”
“Lizzie biết bọn họ kéo đến,” Alice bảo, “thế nên chúng tớ có khối thời gian để bỏ đi. Nhưng dì ấy không đánh hơi ra cậu, nhỉ? Dù cũng đã biết được những gì cậu gây ra cho Mẹ Malkin, tuy nhiên dì ta chỉ phát hiện sau khi chuyện đã xảy ra. Việc chẳng đánh hơi được chút nào về cậu làm dì ta lo lắng. Với lại dì bảo bóng của cậu có mùi kỳ kỳ.”
Tôi phá ra cười khi nghe thế. Ý tôi là, chuyện này điên rồ quá đi. Làm sao một bóng người lại có mùi được chứ?
“Không có gì buồn cười đâu,” Alice trách. “Chẳng phải chuyện đáng cười. Dì ấy chỉ có thể ngửi ra bóng cậu khi nó đổ xuống kho chứa cỏ. Chính tớ chứng kiến và đúng là chẳng ổn chút nào. Ánh trăng đã soi rõ sự thực về con người cậu.”
Bỗng nhiên cô gái bước tới hai bước, ra ngoài ánh mặt trời, đoạn hơi rướn người tới trước và hít hít trên người tôi. “Đúng là cậu có mùi kỳ kỳ thật,” cô bảo, chun chun mũi. Rồi thật vội vã, cô bước lùi ra sau và bỗng trông có vẻ sợ sệt.
Tôi mỉm cười và ra giọng thân thiện. “Này, đừng có đi đến Pendle. Không có bọn họ thì tốt hơn cho cậu đấy. Bọn họ chỉ là đám bạn bè xấu xa thôi.”
“Bạn xấu chẳng làm tớ quan tâm. Sẽ chẳng thay đổi gì được tớ cả, phải không nào? Tớ vốn đã xấu xa rồi. Cậu sẽ chẳng tin lấy một lời về những gì tớ từng là và từng làm. Tớ xin lỗi,” cô nói. “Tớ đã xấu xa trở lại. Tớ không đủ dũng khí để nói không...”
Thốt nhiên, ôi thôi muộn quá rồi, tôi hiểu ra lý do thực sự cho nỗi sợ hãi trên mặt Alice. Chẳng phải cô sợ gì tôi. Mà là sợ cái thứ đang đứng sau tôi.
Tôi chẳng kịp nhìn hay nghe thấy gì cả. Khi nhận thức được thì đã quá muộn rồi. Không chút cảnh báo trước, chiếc túi rỗng bị giật khỏi tay tôi, trùm xuống đầu rồi hai vai tôi và mọi thứ bỗng tối đen. Mấy bàn tay rắn chắc chộp lấy tôi, kẹp cứng hai tay tôi vào sát thân mình. Tôi vùng vẫy trong một lúc nhưng chẳng ích gì: tôi dễ dàng bị nhấc bổng mang đi như một cánh tay nông dân mang một bị khoai tây. Khi bị cắp đi như thế, tôi nghe thấy mấy giọng nói – giọng của Alice rồi thêm giọng một phụ nữ; tôi đoán đấy là Lizzie Xương Xẩu. Tên đang khuân tôi thì chỉ gầm gừ, nên tên này phải là Tusk.
Tôi thấy sợ, sợ như chưa từng bao giờ sợ đến thế trong cả cuộc đời mình. Nghĩa là, tôi đã giết Mẹ Malkin mà mụ ta là bà của Lizzie. Vậy giờ bọn chúng sẽ làm gì tôi đây?
Khoảng một tiếng sau, tôi bị thả mạnh xuống đất đến nỗi toàn bộ không khí trong phổi tôi tống hết ra ngoài.
Ngay khi có thể thở lại được, tôi vùng vằng thoát ra khỏi túi, nhưng có ai đó thụi tôi hai cái vào lưng – mạnh đến nỗi tôi nằm im thẳng cẳng. Tôi sẽ làm tất cả mọi chuyện chỉ để tránh khỏi phải bị thụi như thế nữa, vậy nên tôi nằm yên đó, thậm chí đến thở cũng không dám khi cơn đau chầm chậm dịu xuống chỉ còn ê ẩm.
Thế rồi bọn chúng dùng dây thừng trói tôi lại, cột qua đầu túi, quàng xuống hai tay và đầu tôi rồi thắt gút lại thật chặt. Sau đấy, Lizzie nói ra một điều làm tôi lạnh cả xương.
“Rồi đấy, ta đã cột nó chặt rồi. Giờ mày hãy bắt đầu đào đi.”
Mặt của mụ dí sát mặt tôi đến nỗi tôi có thể ngửi thấy hơi thở hôi thối của mụ qua lần túi. Giống như mùi của chó hay mèo gì đấy. “Này thằng nhãi,” mụ nói. “Cảm thấy thế nào khi biết mi sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày được nữa hả?”
Khi nghe thấy tiếng đào đất từ xa xa, tôi bắt đầu run lập cập vì sợ. Tôi nhớ đến câu chuyện Thầy Trừ Tà kể về vợ bác thợ mỏ, đặc biệt là phần đáng sợ nhất khi bà ấy phải nằm bất động đấy, không thể nào khóc la trong khi người chồng đào huyệt cho bà. Giờ chuyện này đang xảy đến với tôi. Tôi sẽ bị chôn sống và tôi sẽ làm bất cứ chuyện gì chỉ để lại được nhìn thấy ánh sáng ban ngày, thậm chí chỉ là một chốc thôi cũng được.
Thoạt đầu, khi bọn chúng cắt dây thừng và lôi chiếc túi ra khỏi đầu tôi, tôi thấy nhẹ cả người. Lúc ấy mặt trời đã lặn, nhưng khi ngước lên tôi vẫn có thể nhìn thấy các vì sao cùng vầng trăng khuyết thâm thấp ngang mấy ngọn cây. Tôi cảm nhận được gió lùa qua mặt và chưa khi nào lại thấy tuyệt vời như thế. Nhưng rồi cảm giác nhẹ nhõm của tôi chẳng kéo dài được bao lâu, vì tôi đã bắt đầu tự hỏi rằng chính xác thì bọn chúng định làm gì với tôi đây chứ. Tôi chẳng thể nghĩ ra điều gì tồi tệ hơn là bị chôn sống, nhưng chắc hẳn Lizzie Xương Xẩu có thể nghĩ ra chuyện đó lắm.
Thật lòng mà nói, lần đầu tiên nhìn cận cảnh Tusk, hắn trông không đến nỗi gớm như tôi tưởng. Có lẽ là trong cái đêm hắn đuổi theo tôi trông hắn còn khiếp hơn. Hắn không nhiều tuổi bằng Thầy Trừ Tà nhưng bản mặt hắn chằng chịt nếp nhăn và dãi dầu sương gió, thêm một mớ tóc bạc nhầy nhầy phủ xuống đầu. Hàm răng hắn quá to nên không nhét vừa vào trong miệng, nghĩa là hắn chẳng bao giờ có thể ngậm miệng lại cho đàng hoàng, thế nên có hai chiếc răng vểnh ngược lên như hai chiếc nanh vàng khè hai bên mũi hắn. Hắn cũng rất to lớn, lông lá rậm rì với hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp. Tôi đã phải chịu cái nắm chặt tay của hắn rồi và từng nghĩ rằng thế là đã quá kinh khủng, nhưng tôi biết là hắn còn có một đôi vai đầy sức mạnh có thể siết lấy tôi chặt đến nỗi không khí trong người tôi sẽ bị ép hết ra ngoài và các xương sườn sẽ gãy vụn.
Tusk giắt một con dao cong cong to tướng ngang thắt lưng, lưỡi dao trông rất sắc. Nhưng gớm nhất trên người Tusk lại là đôi mắt hắn. Hai mắt mờ đục. Như thể chẳng có thứ gì tồn tại bên trong đầu hắn; hắn chỉ là một công cụ tuân theo lời của Lizzie Xương Xẩu mà chẳng cần suy nghĩ. Tôi biết là hắn sẽ làm bất cứ điều gì mụ ta sai khiến mà không thắc mắc gì, chẳng màng rằng chuyện ấy có kinh khủng đến thế nào.
Còn về Lizzie Xương Xẩu, mụ ta chẳng ốm o gì cả và tôi biết, nhờ đọc sách trong thư viện của Thầy Trừ Tà, rằng chắc là mụ ta được gọi tên như thế vì mụ sử dụng cốt thuật. Tôi đã ngửi thấy hơi thở của mụ rồi, nhưng nếu chỉ nhìn qua thôi thì bạn sẽ chẳng khi nào nghĩ mụ ta là phù thủy. Mụ trông không giống như Mẹ Malkin, teo tóp vì tuổi tác, trông như là một thứ gì đã chết. Không, Lizzie Xương Xẩu trông chỉ giống như một phiên bản lớn tuổi hơn của Alice. Rõ là không thể nhiều hơn ba mươi lăm tuổi, mụ ta có đôi mắt nâu xinh đẹp và mái tóc đen như tóc cô cháu gái. Mụ ta choàng khăn sam màu xanh lục, mặc váy đen, một chiếc nịt da bản nhỏ thắt chặt quanh vòng eo thanh mảnh của mụ. Có lẽ là có nét giống nhau giữa những người trong gia đình ở đây – chỉ trừ miệng của mụ. Không phải là về hình dạng khuôn miệng, mà là về cái cách mụ mấp máy môi; cái cách hai khóe miệng cong cớn vặn vẹo khi mụ mở mồm. Một điều khác tôi để ý thấy nữa là mụ chẳng khi nào nhìn thẳng vào mắt tôi cả.
Alice thì không giống như thế. Cô có cái miệng xinh xắn vẫn còn vương nét cười, nhưng tôi nhận ra rồi dần dà cô cũng sẽ trở nên giống như Lizzie Xương Xẩu.
Alice đã lừa tôi. Cô là lý do tôi đang ở đây chứ không phải là đang êm ấm an toàn trở lại nhà Thầy Trừ Tà mà ăn bữa tối.
Lizzie Xương Xẩu vừa gật một cái, Tusk đã chộp lấy tôi và trói quặt hai tay tôi ra sau lưng. Đoạn hắn giằng tay tôi, kéo tôi đi xuyên qua rừng cây. Trước tiên tôi nhìn thấy một ụ đất cứng, rồi bên cạnh ấy là một cái hố sâu, và tôi ngửi thấy mùi mùn ẩm tanh của đất mới xới. Mùi này như mùi chết chóc lẫn sinh tồn, với những thứ thực sự thuộc về sâu dưới lòng đất lại được đào lên bề mặt.
Cái hố chắc sâu khoảng hai mét mốt, nhưng không giống như hố mà Thầy Trừ Tà đã nhốt Mẹ Malkin vào. Cái hố này có hình dạng không vuông thành sắc cạnh mà chỉ là một cái lỗ có bốn thành dốc. Tôi nhớ mình từng nghĩ rằng, với bao nhiêu lần thực tập trước đây, tôi có thể đào một cái hố đẹp hơn thế này nhiều.
Đúng lúc ấy ánh trăng soi rọi cho tôi thấy một thứ gì khác – một thứ mà tôi mong là mình không thấy thì tốt hơn. Cách đấy khoảng ba bước, phía bên trái hố, là một khuôn đất hình chữ nhật mới đào. Trông như một nấm mồ mới.
Chẳng còn thời gian để mà bắt đầu lo lắng về điều này, tôi đã bị lôi đến ngay bên miệng hố và tên Tusk giật đầu tôi ngẩng lên. Tôi vừa thoáng nhìn thấy gương mặt của Lizzie Xương Xẩu kề sát mặt mình thì một thứ cưng cứng gì đó được nhét vào miệng tôi, theo sau là một chất lỏng lạnh lẽo, đắng ngắt được rót xuống họng. Chất lỏng có vị như mật và được đổ đầy ứ vào họng vào miệng tôi, tràn cả ra ngoài và thậm chí còn ngập vào mũi làm tôi bắt đầu sặc sụa, hào hển cố gắng thở. Tôi cố nhổ cái chất ấy ra nhưng Lizzie Xương Xẩu đã bóp chặt mũi tôi lại bằng ngón cái và ngón trỏ của mụ, thế là để thở được tôi buộc phải nuốt xuống.
Xong chuyện đó rồi, Tusk thả đầu tôi ra, chuyển tay xuống nắm chặt tay trái của tôi. Khi đấy, tôi nhìn thấy cái thứ đã được đổ vào miệng mình – Lizzie Xương Xẩu giơ lên cho tôi xem. Là một chiếc bình nho nhỏ làm bằng thủy tinh sẫm màu. Chiếc bình có cổ hẹp và dài. Mụ dốc chiếc bình sao cho cổ bình chĩa xuống và vài giọt chất lỏng rơi thấm xuống đất. Phần còn lại đã chui vào bụng tôi hết rồi.
Tôi vừa uống thứ gì thế? Mụ ta đã đầu độc tôi chăng.
“Thứ này giúp cho mắt mi mở thao láo đấy thằng nhãi,” mụ cười khẩy rồi nói. “Chúng tao chẳng muốn mi ngủ thiếp đi đâu, phải không nào? Chẳng muốn mi bỏ lỡ chuyện gì cả.”
Chẳng báo trước tiếng nào, Tusk thô bạo quay ngược tôi lại về phía cái hố và dạ dày tôi nhộn nhạo cả lên khi tôi rơi lọt thỏm. Tôi nặng nề té xuống nhưng mặt đất dưới đáy hố lại mềm, nên mặc dù cú ngã làm tôi đứt cả hơi, tôi vẫn không đau đớn lắm. Thế là tôi xoay người lại để nhìn lên mấy ngôi sao, bụng nghĩ rằng có lẽ rốt cuộc rồi mình sẽ bị chôn sống thôi. Nhưng thay vì một xẻng đất đổ ập xuống mặt mình, tôi lại nhìn thấy dáng hình đầu và vai của Lizzie Xương Xẩu nhòm xuống, một bóng người nổi bật trên nền trời sao. Mụ ta bắt đầu lầm rầm khấn những tiếng khùng khục kỳ lạ trong họng, dù là tôi không thể nghe rõ tiếng nào ra tiếng nào.
Tiếp đến, mụ vươn hai tay ngang ra trên miệng hố, tôi có thể nhìn thấy mụ đang cầm thứ gì đó trong mỗi tay. Thét lên một tiếng kỳ lạ, mụ xòe hai lòng bàn tay ra và hai vật trăng trắng rơi xuống trên đống bùn cạnh đầu gối tôi.
Dưới ánh trăng, tôi có thể thấy rõ hai vật này là gì. Chúng dường như sáng rực lên lấp lánh. Lizzie Xương Xẩu đã thả hai mẩu xương xuống hố. Đây là hai miếng xương ngón tay cái – vì tôi có thể nhìn ra đốt khớp xương.
“Này thằng nhãi, hãy tận hưởng đêm cuối cùng của đời mi đi nhé,” mụ gọi với xuống hố. “Cũng chớ lo lắng làm gì, mi sẽ không phải ở một mình đâu vì ta sẽ để mi lại cùng thằng bạn tốt. Billy Đã Khuất sẽ đến đây đòi lại xương của nó. Chỉ ở ngay cạnh đây thôi, thằng bé đấy, nên nó khỏi phải đi đâu cho xa. Nó sẽ chóng đến gặp mi và cả hai bọn mi thật có lắm điểm giống nhau. Nó là thằng học việc gần đây nhất của Lão Gregory, và nó sẽ không tiếp mi tử tế gì lắm đâu vì mi đã chiếm lấy chỗ của nó. Và rồi, ngay trước lúc bình minh ló dạng, chúng tao sẽ đến thăm mi lần cuối. Chúng tao sẽ đến để lóc xương cốt của mi. Xương của mi, chúng đặc biệt lắm, thậm chí còn tốt hơn xương của Billy nữa, và vì được đoạt tươi lấy sống nên đấy sẽ là thứ hữu dụng nhất mà lâu rồi ta mới có được.”
Bản mặt mụ thụt lùi lại và tôi nghe thấy tiếng bước chân đi xa dần.
Vậy ra đấy là những gì sẽ xảy ra cho tôi. Nếu Lizzie cần xương của tôi nghĩa là mụ sẽ phải giết tôi. Tôi nhớ đến lưỡi dao cong cớn to tướng mà Tusk giắt ngay bên thắt lưng và bắt đầu run rẩy.
Nhưng trước khi bị giết tôi lại phải đối mặt với Billy Đã Khuất. Khi Lizzie bảo, “Chỉ ngay cạnh đây thôi”, hẳn là mụ muốn nói đến nấm mồ mới chôn cạnh cái hố. Nhưng Thầy Trừ Tà từng nói Billy Bradley được chôn bên ngoài sân nhà thờ ở Layton cơ mà. Chắc là mụ Lizzie đã đào xác cậu ấy lên, cắt phăng hai ngón cái rồi chôn phần xác còn lại của cậu ở đây, giữa những rừng cây này. Giờ thì cậu ấy sẽ sang đây đòi lại hai ngón cái.
Liệu Billy Bradley có muốn làm hại tôi không? Tôi chưa bao giờ làm gì hại đến cậu ấy cả nhưng chắc chắn trước đây cậu ấy hẳn rất thích được làm chân học việc cho Thầy Trừ Tà. Biết đâu cậu ấy còn đang rất mong chờ được hoàn tất thời gian học việc để trở thành một thầy trừ tà nữa kìa. Giờ đây tôi đã chiếm lấy những gì mà cậu ấy từng sở hữu. Nào chỉ có thế – còn câu chú của Lizzie Xương Xẩu thì sao? Billy có lẽ sẽ nghĩ rằng tôi mới chính là người đã cắt mất ngón cái của cậu và quẳng chúng xuống hố này...
Tôi lồm cồm gượng quỳ dậy và trong vài phút tiếp theo, tôi tuyệt vọng vùng vẫy cố cởi trói cho hai tay mình. Thật vô vọng. Dường như sự oằn oại của tôi càng làm cho sợi dây thừng thít vào chặt hơn.
Tôi cũng cảm thấy kỳ kỳ nữa: đầu choáng váng và miệng mồm khô khốc. Khi tôi nhìn lên các vì sao, chúng dường như rất sáng và mỗi ngôi sao như nhân lên làm hai. Nếu tập trung cao độ mà nhìn, tôi có thể biến những ngôi sao kép ấy thành sao đơn trở lại, nhưng ngay khi thôi không tập trung nữa, các ngôi sao đơn ấy lại biến thành kép. Cổ họng tôi khát cháy và tim tôi đập theo nhịp nhanh gấp ba bốn lần bình thường.
Tôi cứ nghĩ mãi về những gì Lizzie Xương Xẩu đã nói. Billy Đã Khuất sẽ đến đây tìm xương. Những đốt xương ấy nằm lẫn trong đống bùn chỉ cách nơi tôi quỳ chưa tới hai bước chân. Giá như hai tay tôi được tự do thì tôi đã ném mấy đốt xương ấy ra khỏi miệng hố.
Thình lình tôi nhác thấy một chuyển động nhè nhẹ về phía bên trái mình. Nếu nãy giờ tôi đang đứng thì chuyển động ấy hẳn chỉ chớm ngang mức đầu tôi mà thôi. Tôi ngước lên và nhìn theo một cái đầu giòi trắng bệch, múp míp, dài thòng, thò ra khỏi bên hông cái hố. Đầu giòi này rất to, to hơn hẳn bất cứ con giòi nào tôi từng thấy trước đây. Cái đầu đui mù, húp híp ấy chầm chậm quay tròn khi con giòi uốn éo chui phần thân mình còn lại ra ngoài. Con giòi này có thể là giòi gì đây? Liệu nó có độc không? Nó sẽ cắn chứ?
Nhưng rồi tôi ngộ ra. Đấy là một con giòi quan tài! Hẳn đấy là thứ bấy lâu nay sống trong quan tài của Billy Bradley, lớn dần lên vừa béo vừa trơn bóng. Là thứ trắng lôm lốp chưa từng nhìn thấy ánh sáng ban ngày bao giờ!
Tôi rùng cả mình khi con giòi quan tài ấy oằn oại rúc mình ra khỏi đất đen và rơi đánh thịch xuống đống bùn dưới chân mình. Nhưng tôi chẳng còn nhìn thấy nó nữa vì nó đã nhanh chóng chôn mình xuống dưới mặt đất.
Vì quá to béo nên con giòi trắng nhởn đã đục đi khá nhiều đất đai trên vách hố, bỏ lại sau lưng nó là một cái lỗ rộng như một đường hầm hẹp. Tôi quan sát cái lỗ ấy, lòng thì sợ run nhưng vẫn tò mò, vì trong lỗ đường hầm ấy lại có thêm thứ gì khác đang di chuyển. Thứ gì đấy đang khuấy động mặt đất, vì đất trong lỗ đang đổ xuống dần tạo thành một đống đất tơi.
Việc không biết được đấy là thứ gì càng làm cho mọi chuyện thêm tồi tệ. Tôi phải nhìn ra cho được trong lỗ ấy là thứ gì, thế là tôi vặn vẹo mình cố đứng lên. Tôi loạng choạng, lại thấy xây xẩm, những vì sao bắt đầu quay cuồng. Sém chút là ngã nhào nhưng tôi cố bước lên một bước, chúi người về phía trước để tiến được gần với đường hầm hẹp ấy hơn, lúc này đường hầm chỉ ngang tầm với đầu tôi.
Khi nhìn vào được bên trong rồi, tôi lại ước sao mình đã không làm thế.
Tôi nhìn thấy xương. Xương người. Những phần xương được gắn kết với nhau. Những mẩu xương di chuyển. Hai bàn tay không có ngón cái. Một trong hai bàn tay ấy không có ngón tay. Xương nhóp nhép trong bùn đất, lê mình về phía tôi qua đống đất mềm. Một chiếc sọ người nhăn nhở chìa ra những chiếc răng thưa.
Là Billy Đã Khuất, nhưng thay cho hai mắt của cậu ấy là hai hố mắt đen ngòm nhìn tôi trừng trừng, sâu hoắm vô hồn. Khi một bàn tay trắng hếu không da thịt thò ra ngoài ánh trăng và chọc mạnh vào mặt tôi, tôi bước giật lùi, gần như té ngã, sụt sịt vì sợ hãi.
Trong thời khắc ấy, vừa khi tôi tưởng mình sắp hóa điên vì kinh hoàng, thì không khí đột nhiên trở lạnh hơn và tôi có thể cảm nhận được thứ gì đó bên phải mình. Ai đó khác đã chui xuống hố cùng tôi. Ai đó đang đứng tại nơi không thể nào đứng được. Nửa người cậu ta được nhìn rõ; nửa người còn lại đang được chôn chìm trong vách đất.
Là một cậu bé không lớn tuổi hơn tôi là mấy. Tôi chỉ có thể nhìn được nửa người bên trái cậu vì phần thân thể còn lại vẫn còn lẫn đâu đó đằng sau, trong đất. Thật thoải mái nhẹ nhàng như bước qua cánh cửa, cậu hơi lách vai phải về phía tôi và toàn bộ thân mình còn lại của cậu bước hẳn vào trong hố. Cậu mỉm cười với tôi. Một nụ cười ấm áp thân thiện.
“Sự khác nhau giữa tỉnh thức và mộng tưởng,” cậu cất lời. “Đấy là một trong những bài học khó nhất cần phải học. Giờ thì hãy học đi, Tom. Học ngay bây giờ trước khi quá muộn...”
Giờ tôi mới để ý thấy đôi ủng của cậu. Đôi ủng trông rất đắt tiền và được tạo nên từ loại da thuộc chất lượng nhất. Chúng giống y đôi ủng của Thầy Trừ Tà.
Khi đấy, cậu nhấc hai tay mình lên cho mỗi tay giơ lên mỗi bên đầu, lòng bàn tay hướng ra ngoài. Mỗi bàn tay thiếu hẳn ngón tay cái. Bàn tay trái của cậu cũng không còn ngón tay nào.
Đấy là hồn ma của Billy Bradley.
Cậu bắt chéo hai tay trước ngực và mỉm cười lần nữa. Khi Billy dần tan biến đi, cậu trông có vẻ vui vẻ và thanh thản.
Tôi đã thông suốt những gì cậu ấy vừa mách cho mình. Không, tôi không phải đang ngái ngủ, nhưng nói theo một cách nào đấy thì tôi đang mơ màng. Nãy giờ tôi đang mơ những giấc mơ đen tối đến từ cái lọ mà Lizzie đã ép đổ vào miệng tôi.
Khi tôi quay nhìn lại lỗ hổng, nó đã biến mất. Chẳng còn bộ xương người nào bò về phía tôi cả. Cũng không có lấy con giòi quan tài nào.
Chất lỏng ma thuật kia hẳn là một loại độc dược nào đó: thứ khiến cho việc phân biệt giữa tỉnh thức và mộng tưởng hóa khó khăn. Đấy là thứ Lizzie đã bắt tôi uống. Thứ đấy làm cho tim tôi đập nhanh hơn, khiến tôi không ngủ được. Thứ đấy đã làm cho mắt tôi mở thao láo, hơn nữa lại nhìn thấy những sự vật mà thực ra là không hiện hữu.
Gần ngay sau đấy, những vì sao biến mất và trời bắt đầu mưa như trút nước. Đêm ấy là một đêm lạnh lẽo, khó chịu, dài dặc, khiến tôi nghĩ mãi đến chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi trước khi trời rạng. Càng gần đến khi ấy, tôi càng cảm thấy khó chịu hơn.
Khoảng một tiếng đồng hồ trước lúc bình minh, cơn mưa thưa dần thành cơn lất phất, sau tạnh hẳn. Một lần nữa tôi lại nhìn thấy những vì sao, và lúc này thì chúng không bị nhân đôi lên nữa. Tôi ướt nhẹp và lạnh ngắt nhưng cổ họng tôi không còn cháy khát.
Khi một gương mặt từ bên trên thò ra, nhìn xuống dưới hố, tim tôi bắt đầu đập dồn dập vì tôi nghĩ đấy là Lizzie đến thu lấy xương cốt mình. Nhưng thật nhẹ nhõm làm sao, đấy lại là Alice.
“Lizzie sai tớ đến đây xem cậu thế nào rồi,” cô gái khẽ khàng hỏi vọng xuống. “Billy đã đến chưa vậy?”
“Cậu ấy đến và đi rồi,” tôi giận dữ đáp lời.
“Tớ không bao giờ mong muốn chuyện này xảy ra cả đâu, Tom ạ. Giá mà cậu đừng dây dưa vào chuyện này thì mọi việc đã yên lành rồi.”
“Đã yên lành ư?” tôi bảo. “Thực ra nếu làm theo cách của cậu thì đến lúc này sẽ có thêm một đứa bé phải chết và có thể là cả Thầy Trừ Tà nữa. Với lại trong mấy cái bánh ấy có cả máu trẻ con đấy. Cậu gọi thế là yên lành ư? Cậu xuất thân từ một gia đình rặt lũ sát nhân và bản thân cậu cũng là quân giết người!”
“Không phải thế. Không phải thế đâu!” Alice phản đối. “Không có đứa bé nào cả. Tất cả những gì tớ làm là đưa cho cậu mấy chiếc bánh thôi mà.”
“Thậm chí là thế đi nữa,” tôi nằng nặc buộc tội, “cậu vẫn biết sau đấy bọn chúng định làm gì. Và cậu cứ mặc cho chuyện ấy xảy ra.”
“Tớ không mạnh đến thế đâu mà Tom. Làm sao tớ có thể ngăn chặn được chứ? Làm sao tớ có thể ngăn được Lizzie?”
“Tớ đã lựa chọn làm theo những gì tớ muốn làm,” tôi bảo với cô gái. “Nhưng còn cậu sẽ chọn thế nào hả Alice? Cốt thuật hay huyết thuật đây? Thứ nào vậy? Sẽ là thứ nào thế?”
“Chẳng là thứ nào cả. Tớ không muốn giống như bọn họ. Tớ sẽ bỏ trốn. Ngay lúc nào có cơ hội, tớ sẽ biến ngay.”
“Nếu cậu có ý thế thật, thì giờ hãy giúp cho tớ đi. Giúp tớ leo lên khỏi hố. Chúng ta sẽ cùng nhau bỏ trốn.”
“Bây giờ thì nguy hiểm lắm,” Alice từ chối. “Để sau này rồi tớ mới trốn. Có lẽ là thêm vài tuần nữa khi bọn họ không thấy nghi ngờ.”
“Ý cậu là sau khi tớ chết phỏng? Khi tay cậu vấy thêm nhiều máu nữa ấy...”
Alice không trả lời. Tôi nghe thấy tiếng cô nức nở nho nhỏ, nhưng đúng lúc tôi tưởng cô đang trên lằn ranh thay đổi quyết định mà ra tay giúp tôi, thì cô lại bỏ đi.
Tôi ngồi ì trong hố, lòng hoảng loạn nghĩ về những gì sắp xảy đến cho mình, nhớ về những người treo cổ và giờ đây tôi hiểu được chính xác những gì mà hẳn bọn họ đã cảm thấy trước khi chết. Tôi biết rằng mình sẽ không bao giờ trở về nhà được nữa. Không bao giờ gặp lại gia đình mình. Tôi đã gần như từ bỏ mọi hy vọng thì có tiếng bước chân tiến gần về phía hố. Tôi đứng lên, sợ hãi, nhưng lần này cũng lại là Alice.
“Ôi Tom ơi, tớ thật xin lỗi nhé,” Alice bảo. “Bọn họ đang mài sắc những con dao...”
Thời khắc tồi tệ hơn hết thảy đang đến gần và tôi biết mình chỉ còn một cơ hội duy nhất. Cơ hội duy nhất tôi có, là Alice.
“Nếu cậu thực lòng biết lỗi thì hãy giúp tớ nào,” tôi dịu dàng nói.
“Tớ chẳng thể làm được gì cả,” cô gái bật khóc. “Lizzie có thể trở mặt với tớ. Dì ta không tin tưởng tớ. Luôn nghĩ là tớ hay yếu lòng.”
“Hãy chạy đi tìm thầy Gregory đi nào,” tôi bảo. “Hãy dẫn thầy ấy đến đây.”
“Chẳng phải giờ đây làm thế là quá muộn rồi sao,” Alice sụt sịt lắc đầu. “Xương được lóc ra vào ban ngày không có ích lợi gì cho Lizzie cả. Chẳng tác dụng gì. Thời điểm thích hợp nhất để lóc xương là vừa ngay trước lúc mặt trời ló dạng. Vậy nên bọn họ sẽ đến tìm cậu trong vài phút nữa thôi. Cậu chỉ còn có từng ấy thời gian thôi đấy.”
“Thế thì đưa cho tớ con dao nào,” tôi giục.
“Cũng chẳng ăn nhằm gì sất. Mạnh lắm, bọn họ ấy. Cậu không thể đánh lại họ đâu, đúng không?”
“Đúng,” tôi đáp. “Tớ chỉ muốn cắt sợi dây trói thôi. Rồi tớ sẽ bỏ chạy.”
Thốt nhiên Alice biến mất. Cô biến mất để đi tìm dao, hay là vì quá sợ Lizzie mà biến? Tôi chờ đợi trong giây lát, nhưng khi cô gái không quay trở lại, tôi thấy mình tuyệt vọng quá rồi. Tôi vùng vẫy, cố sức tách hai cổ tay ra, cố chộp lấy sợi dây, nhưng vô ích cả.
Khi một gương mặt thò xuống nhìn tôi, tim tôi thót lên sợ hãi, nhưng đấy lại là Alice đang cầm thứ gì đó trên miệng hố. Cô gái thả ra, vật ấy rơi xuống, kim loại lóe lên dưới ánh trăng.
Alice đã không làm tôi phải thất vọng. Đấy là một con dao. Nếu như tôi cắt được dây trói thì tôi sẽ thoát...
Thoạt tiên, dù là hai tay có bị trói quặt ra sau lưng, tôi vẫn không nghi ngờ khả năng mình làm được việc đó. Hiểm họa duy nhất là có lẽ tôi sẽ cắt trúng mình chút ít, nhưng thế thì có nhằm nhò gì so với việc bọn chúng sẽ làm với tôi trước lúc bình minh đâu chứ? Chẳng mấy chốc tôi đã tóm được con dao. Đặt dao kề vào sợi dây trói thực ra là khó khăn hơn và di chuyển dao lại còn khó hơn nữa. Khi đánh rơi con dao lần thứ hai, tôi bắt đầu hoảng loạn. Còn chưa tới một phút nữa bọn chúng sẽ tìm đến tôi.
“Cậu phải giúp tớ,” tôi gọi vọng lên Alice. “Nào, nhảy xuống hố đi nào.”
Tôi không nghĩ cô gái sẽ làm theo, nhưng ngạc nhiên biết bao là cô ấy làm thế thật. Alice không nhảy xuống mà là hạ chân mình xuống trước, mặt đối diện với vách hố, hai tay bám trên miệng hố để thân mình vắt vẻo. Khi cả người đã duỗi ra hết cỡ, còn khoảng một mét cuối cùng, cô thả tay rơi xuống.
Alice chẳng mất bao lâu là cắt đứt được sợi dây. Hai tay tôi giờ đã tự do và những gì còn lại phải làm là leo lên khỏi hố.
“Để tớ đứng trên vai cậu nào,” tôi đề nghị. “Rồi tớ sẽ kéo cậu lên.”
Alice chẳng phản đối gì, và sau khi thử đến lần thứ hai thì tôi đã gượng giữ được thăng bằng trên vai cô mà lê mình lên nền cỏ ẩm ướt. Rồi lại đến công đoạn khó khăn – kéo Alice ra khỏi hố.
Tôi với tay trái xuống. Alice dùng tay trái nắm cứng bàn tay tôi, còn tay phải bấu vào cổ tay tôi để thêm lực đỡ. Đoạn tôi cố kéo cô gái lên.
Rắc rối đầu tiên là vạt đất cỏ trơn trợt, ướt nhẹp, khiến tôi khó khăn lắm mới giữ cho mình không bị kéo trượt xuống mép hố. Thế rồi tôi nhận ra mình không có đủ sức để làm chuyện này.Tôi đã phạm một sai lầm to lớn. Không nhất thiết vì Alice là con gái mà cô phải yếu sức hơn tôi. Lúc tôi nhớ đến cái cách cô kéo dây khi gióng chuông của Thầy Trừ Tà thì đã quá muộn rồi. Cô hầu như chẳng tốn chút sức nào. Lẽ ra tôi nên để cho cô ấy trèo lên vai mình thì hơn. Lẽ ra tôi phải để cho Alice ra khỏi hố trước. Rồi hẳn là cô sẽ dễ dàng kéo tôi lên không chút nhọc công gì.
Ngay khi ấy, tôi nghe thấy tiếng nói chuyện. Lizzie Xương Xẩu và Tusk đang băng qua rừng và tiến về phía chúng tôi.
Tôi nhìn thấy bên dưới mình, hai chân Alice đang giãy đạp lên vách hố, cố tìm chỗ bám vào. Cơn tuyệt vọng ban cho tôi thêm sức mạnh. Tôi bất thình lình giật thật mạnh làm Alice ào lên khỏi hố và té lăn ra bên cạnh tôi.
Chúng tôi đứng lên vừa kịp lúc, co giò chạy thục mạng cùng tiếng bước chân khác rầm rập đuổi theo sau. Thoạt tiên, tiếng bước chân ấy nghe khá xa, nhưng rồi dần dà mỗi lúc một đến gần hơn.
Tôi chẳng biết chúng tôi đã chạy trong bao lâu. Có cảm giác như dài đằng đẵng đến trọn kiếp. Tôi chạy cho đến khi hai chân nặng như chì còn hơi thở thì như bốc hỏa trong họng. Chúng tôi đang bỏ chạy về phía Chipenden – tôi nhận ra như thế vì thi thoảng có nhác thấy bóng những rặng đồi đá xuyên qua rừng cây. Chúng tôi đang bỏ chạy về phía bình minh. Bầu trời giờ đang chuyển sang xam xám và mỗi lúc một sáng rỡ hơn. Thế rồi, ngay đến lúc tôi có cảm giác mình không thể nhấc thêm bước nào nữa, đỉnh những rặng đồi đá lại bừng lên sắc cam tai tái. Bình minh đã ló dạng, tôi nhớ mình có nghĩ dù cho giờ phút ấy chúng tôi có bị tóm, thì chí ít đã là ban ngày và xương cốt của tôi chẳng còn ích lợi gì với Lizzie nữa đâu.
Khi chúng tôi chạy ra khỏi rặng cây trên sườn cỏ thoai thoải và bắt đầu chạy ngược lên đồi, hai chân tôi đã không còn đâu sức lực. Chúng nhũn ra như mứt và Alice bắt đầu bỏ xa tôi. Cô gái liếc ra sau nhìn tôi, khuôn mặt cô hoảng hốt. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng bọn chúng giẫm rào rạt qua những rặng cây sau lưng chúng tôi.
Rồi tôi đột ngột dừng bặt. Tôi dừng vì tôi muốn dừng. Tôi dừng vì chẳng còn phải chạy đi đâu xa hơn nữa.
Ở đằng kia, đứng cao cao trên đỉnh một ngọn đồi trước mặt, là một dáng người dong dỏng cao mặc đồ đen, tay cầm thanh trượng dài. Đúng đấy là Thầy Trừ Tà rồi nhưng không hiểu sao thầy trông khang khác. Mũ trùm của thầy đã lật ra sau, còn tóc thầy, được mặt trời đang nhô cao chiếu rọi, dường như là đang chảy ra phía sau đầu như những ngọn lửa màu da cam.
Tusk rống lên thật lớn và phóng lên đồi về phía thầy, vừa chạy vừa vung vít con dao, Lizzie Xương Xẩu bám sát sau gót hắn. Lúc này chúng chẳng bận tâm gì đến chúng tôi nữa. Chúng biết kẻ thù chính yếu của mình là ai. Chúng có thể đối phó với hai đứa tôi sau cũng được.
Đến lúc ấy Alice cũng đã dừng bước, nên tôi run rẩy bước thêm đôi bước để đến đứng ngang hàng với cô gái. Cả hai bọn tôi đều dõi theo Tusk ra đòn cuối cùng, vừa chạy vừa giơ cao lưỡi dao cong vút gầm rống giận dữ.
Tự nãy giờ Thầy Trừ Tà vẫn đứng im như tượng, nhưng rồi để đáp trả, thầy sải hai bước dài xuống sườn đồi về phía Tusk và giơ cao thanh trượng. Thầy chĩa đầu trượng như mũi giáo, xỉa thật mạnh vào đầu Tusk. Ngay trước khi đầu trượng chọc trúng trán hắn, có một tiếng như tiếng đánh “cách” và một ngọn lửa đỏ phụt ra từ mũi thanh trượng. Một tiếng “ầm” nặng nề vang lên khi mũi trượng đánh trúng mục tiêu. Lưỡi dao cong cong ấy văng vút lên không trung trong khi thân xác của Tusk đổ nhào như một bịch khoai tây. Tôi biết hắn đã chết trước khi xác hắn chạm đất.
Tiếp đến, Thầy Trừ Tà dời cây trượng sang bên và cho tay vào trong túi áo choàng. Khi tay trái của thầy lại vung ra thì nó đang nắm chặt một vật mà thầy quất cao lên không trung như một cây roi. Vật ấy lóa lên dưới ánh mặt trời và tôi biết đấy là sợi xích bạc.
Lizzie Xương Xẩu quay người định bỏ chạy nhưng muộn quá rồi: khi đến lượt quất thứ hai, sợi xích vung lên kèm theo ngay sau đấy là một âm thanh kim loại rít lên thật lớn. Sợi xích bắt đầu vụt xuống, tự cuộn lại thành một vòng xoáy lửa quấn chặt quanh người Lizzie Xương Xẩu. Mụ ta ré lên đau đớn rồi té lăn ra đất.
Tôi cùng Alice đi lên đỉnh đồi. Ở đấy, chúng tôi thấy một sợi xích bạc quấn chặt quanh người mụ phù thủy từ đầu đến chân. Sợi xích còn quấn cả quanh miệng mụ ta, căng qua hàm răng. Hai mắt mụ đã trợn ngược lên và toàn thân mụ cố sức giãy giụa, nhưng mụ không thể gào thét gì được.
Tôi liếc qua phía Tusk. Hắn đang nằm ngửa chổng vó, hai mắt trợn tròn. Đúng là hắn đã chết thật rồi và chính giữa trán hắn là một vết thương màu đỏ. Khi đấy, tôi đưa mắt nhìn thanh trượng, bụng thắc mắc về ngọn lửa mình vừa nhìn thấy phụt ra từ đầu trượng ấy.
Sư phụ tôi trông hốc hác, mệt mỏi và bất chợt thật già nua. Thầy liên tục lắc đầu như thể chính thầy đã quá mệt mỏi với cuộc sống. Dưới bóng râm của sườn đồi, mái tóc của thầy đã trở lại sắc bạc quen thuộc và tôi nhận ra lý do vì sao tóc trông như chảy ngược ra sau đầu thầy: tóc thầy bết đẫm mồ hôi và thầy đã dùng tay vuốt tóc ra sau tai. Khi tôi đang quan sát thì thầy lại làm thế lần nữa. Mồ hôi đang nhỏ thành giọt từ chân mày của thầy, và thầy thở khá gấp. Tôi hiểu ra, lúc trước thầy đã phải chạy rất nhanh.
“Làm sao thầy tìm ra chúng con thế ạ?” tôi hỏi.
Phải một lúc sau thầy mới trả lời, nhưng cuối cùng rồi hơi thở của thầy cũng đều nhịp lại và thầy có thể lên tiếng. “Luôn có những dấu tích đấy, anh bạn à. Những dấu vết có thể lần theo được, nếu con biết cách. Đấy lại thêm một điều khác mà con cần học hỏi.”
Thầy quay sang nhìn Alice. “Hai bọn chúng thì đã xử lý rồi, nhưng chúng ta sẽ làm gì với con bé này đây?” thầy hỏi, mắt nhìn trừng trừng cô gái.
“Bạn ấy giúp con trốn thoát đấy,” tôi đỡ lời.
“Thật vậy sao?” Thầy Trừ Tà hỏi. “Nhưng con bé còn làm gì khác nữa thế?”
Lúc ấy thầy lại trừng mắt nhìn tôi và tôi cố chịu đựng ánh nhìn ấy. Khi tôi cúi nhìn xuống đôi ủng của mình thì thầy lại chặc lưỡi. Tôi không thể nói dối thầy được và tôi biết thầy đã đoán ra Alice cũng dự phần vào những việc đã xảy đến với tôi.
Thầy lại quay sang nhìn Alice. “Mở miệng ra xem nào, cô nhỏ,” thầy cộc cằn bảo, giọng thầy chất chứa cơn giận. “Ta muốn xem răng của mi.”
Alice làm theo và Thầy Trừ Tà bất ngờ rướn mình tới trước bóp chặt hàm cô gái. Thầy dí sát mặt vào cái miệng đang há to của Alice mà khụt khịt ầm ĩ.
Khi quay lại nhìn tôi, tâm trạng của thầy dường như dịu lại, đoạn thầy thở dài. “Hơi thở của con bé cũng thơm tho đấy,” thầy bảo. “Con có ngửi thấy hơi thở của tên kia chứ?” thầy hỏi tôi, vừa thả hàm của Alice ra thầy vừa chỉ xuống Lizzie Xương Xẩu.
Tôi gật đầu.
“Là do chế độ ăn của ả gây ra đấy,” thầy bảo. “Và điều ấy sẽ mách bảo ngay cho con biết mụ ta trước nay đã làm gì. Những kẻ luyện cốt thuật hay huyết thuật đều có mùi của máu hay thịt sống. Nhưng hơi thở con bé này có vẻ là ổn.”
Rồi thầy lại dí sát mặt mình vào mặt Alice. “Này cô nhỏ, hãy nhìn thẳng vào mắt ta xem nào,” thầy bảo. “Hãy nhìn vào mắt ta lâu hết mức có thể.”
Alice làm theo như được bảo nhưng cô gái không thể nhìn thầy thật lâu, mặc cho miệng phải mím cả lại vì cố sức. Cô cụp mắt xuống và bắt đầu khóc khe khẽ.
Thầy Trừ Tà nhìn xuống đôi giày mũi nhọn của Alice và buồn bã lắc đầu. “Ta cũng không biết nữa,” thầy vừa nói vừa lại quay sang nhìn tôi. “Ta chỉ không biết làm sao cho tốt nhất. Không phải mỗi con bé này thôi. Chúng ta còn phải nghĩ cho những người khác nữa. Những người vô tội mà trong tương lai có thể phải chịu đựng đau đớn. Con bé này đã chứng kiến và biết quá nhiều điều không có lợi gì cho nó cả. Con bé có thể biến thành hoặc ác hoặc thiện và ta không biết liệu có an toàn không nếu ta thả cho nó đi. Nếu con bé đi về hướng đông để gia nhập vào dòng giống nhà nó ở Pendle, con bé sẽ lạc lối vĩnh viễn và sẽ chỉ thêm phần vào thế lực bóng tối mà thôi.”
“Thế cậu không còn nơi nào khác để đi à?” tôi mềm mỏng hỏi han Alice. “Không họ hàng bà con gì khác sao?”
“Có một ngôi làng ven bờ biển. Tên ngôi làng là Staumin. Tớ có một bà dì khác sống ở đấy. Biết đâu dì ấy chịu nhận tớ vào...”
“Bà ta có giống những người khác không?” Thầy Trừ Tà hỏi, lại trừng mắt nhìn Alice.
“Nếu để ý thấy thì không ạ,” Alice trả lời. “Nhưng mà, đường đi rất xa và con trước giờ chưa từng đến đấy. Có thể mất cả ba ngày hoặc hơn để đến đó đấy.”
“Ta có thể bảo anh bạn này đi cùng con,” giọng Thầy Trừ Tà đột nhiên nghe tử tế hơn nhiều. “Cậu ta đã xem rất kỹ bản đồ của ta rồi nên ta nghĩ cậu ta sẽ biết cách tìm đường đến đấy. Khi trở về, cậu ta sẽ phải học cách gấp mấy bản đồ lại cho đúng đắn. Mà thôi, chuyện đã được quyết rồi. Ta sẽ cho con một cơ hội đấy, cô nhỏ ạ. Tùy vào con nếu con có muốn nắm bắt lấy cơ hội ấy hay không mà thôi. Nếu con không nhận lấy, thì một ngày nào đó chúng ta lại gặp nhau và lần tới ấy con sẽ không được may mắn lắm đâu.”
Đoạn thầy lôi từ trong túi ra một mảnh vải quen thuộc. Trong đấy là một nhúm phô mai dành để đi đường. “Thế để cho các con không bị đói,” thầy bảo, “nhưng đừng có một lúc mà ăn hết sạch nhé.”
Tôi hy vọng trên đường đi chúng tôi có thể tìm thấy thứ gì ngon lành hơn mà ăn, nhưng tôi vẫn lí nhí cảm ơn.
“Đừng đi thẳng đến Staumin,” Thầy Trừ Tà bảo, mắt nhìn thẳng tôi không chớp. “Ta muốn con quay trở về nhà trước. Đem theo con bé này và hãy để mẹ con nói chuyện với con bé. Ta có cảm giác có lẽ mẹ con sẽ giúp được. Ta sẽ chờ con quay trở về trong vòng hai tuần.”
Nghe đến đấy tôi nhoẻn cười. Sau mọi chuyện đã xảy ra, được dịp quay về nhà vài hôm như là giấc mơ có thực. Nhưng có một điều làm tôi không hiểu, bởi vì tôi nhớ đến lá thư mẹ tôi từng gửi cho Thầy Trừ Tà. Dường như thầy đã không vui vẻ gì với vài điều mẹ nói trong thư. Thế thì tại sao thầy lại nghĩ mẹ tôi có thể giúp được cho Alice? Tôi chẳng nói gì, vì tôi không dám liều lĩnh, khiến Thầy Trừ Tà phải suy nghĩ lại. Tôi chỉ rõ là mừng vì được đi xa.
Trước khi rời đi, tôi kể cho thầy nghe về Billy. Thầy chỉ buồn rầu gật đầu nhưng bảo tôi đừng lo gì cả vì thầy sẽ làm hết mọi chuyện cần phải làm.
Khi cất bước, tôi liếc ra sau và nhìn thấy Thầy Trừ Tà khuân Lizzie Xương Xẩu bên vai trái và sải bước quay lại Chipenden. Nhìn từ đằng sau, bạn có thể nhầm thầy với người đàn ông trẻ hơn cả ba mươi tuổi.