Vài ngày sau, Angiêlic trở về lâu đài sau buổi cưỡi ngựa dạo chơi sáng sớm dọc theo bờ sông Garon. Ngày sau lúc mặt trời mọc không khí còn lành lạnh, nàng thích đi ngựa vài giờ. Bá tước Perắc thỉnh thoảng đi kèm với nàng. Khác với số đông các nhà quý tộc, ông không h thích cưỡi ngựa và đi săn. Người ta có thể cho là vì ông ngại cử động mạnh. Nhưng không phải, tài đấu kiếm của ông nổi tiếng không kém gì tài hát hay. Ông tập luyện hàng ngày trong phòng để vũ khí, nhưng chưa bao giờ Angiêlic trông thấy ông luyện đấu kiếm. Còn rất nhiều điều nàng chưa biết về chồng mình. Đôi khi, nàng bỗng buồn bã nhớ lại lời Tổng giám mục đã nói nhỏ với mình trong ngày cưới: “Nói riêng thôi nhé, cô đã chọn một vị phu quân khá kỳ lạ”.
Đối với nàng, Bá tước lại trở về thái độ kính trọng nhưng xa cách, như trong những ngày đầu tiên. Nàng ít có dịp trông thấy ông, mà nếu có thì bao giờ cũng trước mặt khách khứa. Có lúc nàng tự hỏi: liệu phu nhân Cácmenxita Mêrơcua kiêu hãnh có là một trong những nguyên nhân làm cho chồng mình có thái độ xa lánh mình chăng?
Nữ công tước Cácmenxita Mêrơcua phô trương một lối sống lập dị, khiến Angiêlic bối rối và cảm thấy bị xúc phạm. Mặc dù do tiếp xúc với cái xã hội phù hoa ở Tuludơ này, đã học được cách cư xử thanh lịch, của giới thượng lưu, trong thâm tâm nàng vẫn là một cô gái hồn nhiên như bông hoa trên đồng nội, mộc mạc và quá dễ x
úc động. Nàng tự lượng sức mình chưa đủ mạnh để đánh bại Cácmenxita Mêrơcua. Và đôi khi, trái tim bị ghen tuông giày vò, nàng tự nhủ rằng người phụ nữ Tây Ban Nha rực lửa ấy thích hợp với tính cách khác thường của Bá tước Perắc hơn bản thân nàng.
Sáng hôm đó, trên lưng ngựa trở về lâu đài với đoàn tùy tùng nam nữ thân quen, nàng lại trông thấy cỗ xe ngựa có trưng huy hiệu của Tổng giám mục đỗ trước cổng lớn. Nàng thấy từ trên xe một người cao lớn mặc áo dài vải thô bước xuống, sau đó là một nhà quý tộc ăn mặc diêm dúa, kiếm dắt ngang lưng, to tiếng truyền lệnh và quát tháo.
Một cậu nhỏ tùy tùng đến báo cho Angiêlic biết Bá tước Perắc mời nàng đến. Vào phòng đợi, nàng thấy chồng đang đứng với nhà quý tộc và người thày tu vừa nhìn thấy ngoài cổng.
- Đây là linh mục Bêse, nhà khoa học tài giỏi mà Đức cha đã giới thiệu với chúng ta. - Bá tước Perắc nói với vợ. - Đây là Công tử Giécmôngtadờ, cháu ruột của Đức cha.
Ông linh mục người cao và gầy. Ngược lại, công tử Giécmôngtadờ có nước da hồng hào và cái bụng đã khá phệ, mặc dù mới hai mươi lăm tuổi
- Bây giờ nhà tôi đã tới, vậy chúng ta có thể đến phòng thí nghiệm. - Bá tước Perắc nói.
Ông linh mục giật mình, nhìn Angiêlic với vẻ ngạc nhiên:
- Nghĩa là Phu nhân sẽ đến nơi thâm nghiêm đó để dự các cuộc thảo luận và thí nghiệm mà Ngài có nhã ý mời chúng tôi tham gia, phải không ạ?
Bá tước nhăn mặt với vẻ mỉa mai, trân trân nhìn khách và nói:
- Thưa cha, trong thư gửi cho Đức cha để nhận lời tiếp các vị theo ý Người thường mong muốn, tôi đã nói rằng đây sẽ là cuộc viếng thăm mà chỉ những người nào được tôi chọn mới tham dự mà thôi.
Trong khi nói chuyện, mấy người đi đến phòng đọc sách, nơi đây Bá tước muốn giới thiệu đầu tiên.
Trong phòng đọc sách tranh tối tranh sáng bởi các rèm che cửa, có một bóng người cử động và cúi xuống chào khi đoàn người lại gần.
- Quái nhỉ, bác đang làm gỉ ở đây, bác Clêmăng? - Bá tước hỏi, không giấu một chút ngạc nhiên. - Không ai được vào đây nếu không được tôi cho phép. Tôi nghĩ là tôi không trao chìa khóa phòng này cho bác mà, đúng không?
- Xin Ngài Bá tước tha tội cho tôi. Tôi đang lau chùi dọn dẹp phòng sách này, và muốn tự tay làm chứ không giao phó những pho sách quý giá này cho bọn đầy tớ ngu dốt.
Người quản gia cẩn thận thu thập chổi, bàn chải và thang gập của mình, rồi cúi rạp người xuống để rút lui.
Ông linh mục nhận thấy trên các giá sách một loạt các tác phẩm kinh điển về phép luyện đan. Điều làm ông ta vừa ý nhất là thấy cả cuốn sách của chính mình, cuốn “Bàn về sự chuyển hóa các chất”.
Bá tước đưa khách ra ngoài phòng sách, rồi dẫn đầu mọi người đi sang cánh lâu đài, nơi đặt phòng thí nghiệm.
Các vị khách trông thấy ống khói lớn trên mái phòng tỏa khói, giống cái mỏ của một thứ chim khổng lồ nào đó thời tiền sử. Khi họ đến thật gần, cái ống khói đặc biệt này phát ra tiếng động răng rắc về phía đoàn khách, và để lộ một lỗ hổng to hoắc nhả khói và muội dày đặc.
Vị linh mục giật mình đánh thót, nhảy lùi lại một bước.
- Có gì đâu, đấy chỉ là một thứ ống thông gió, để hút mạnh không khí vào trong lò. - Bá tước giải thích.
Ông linh mục làm dấu ba lần rồi mới bước qua ngưỡng cửa phòng thí nghiệm theo gót Angiêlic và Bá tước trong khi anh giúp việc da đen Cuaxi-Ba đứng nghiêm giơ gươm chào, rồi lại tra vào vỏ. Ở cuối phòng, hai lò lửa đang sáng rực, lò thứ ba thì chưa đốt. Phía trước lò là một dãy máy móc hình dáng kỳ dị làm bằng da và sắt thép, cùng nhiều đồ gốm và ống đồng.
- Đây là trung tâm luyện kim của tôi. Tôi sử dụng các thứ này khi cần tạo ra một ngọn lửa cực nóng: thí dụ như để nung chảy đồng, hoặc vàng, bạc. - Perắc giải thích.
Hàng loạt bó gỗ được xếp dọc gian phòng chính, lèn chặt với các thứ chai lọ có đánh dấu và ghi số một cách bí hiểm.
Bá tước giới thiệu:
- Tôi có một kho đủ các chất và vật liệu dùng cho thí nghiệm ở đây. Trong cái phòng nhỏ phía sau kia là những thứ đất đá chứa đựng chất vàng vô hình, như quặng acxơnic, cùng những đá quặng khác đem nung chảy sẽ cho ta bạc.
Bá tước nhặt một tảng than khá to ở một đống bên cạnh lò. Rồi ông rút cây nến lớn từ trong vò ra; châm lửa vào nến dùng kim thép khoét một lỗ nhỏ trong tảng than, rồi gài vào đó một chất như sáp, màu vàng sậm, soi lên thấy trong trong, và trộn một ít borát. Đoạn ông lấy cái ống cong bằng đồng, để gần ngọn lửa của cây nến và nhẹ nhàng thổi lửa vào cái lỗ nhỏ khoét ở tảng than đựng hai chất muối kia. Hai chất này chảy ra hòa vào nhau, phồng lên và đổi màu. Rồi thấy xuất hiện một loạt những giọt kim loại. Bá tước thổi lửa mạnh hơn khiến những giọt ấy nhập thành một cục hình cầu nhỏ, sáng rực. Ông bỏ cây nến cháy đi, dùng đầu mũi dao con hứng lấy cục kim loại long lanh:
- Đây là chất bạc đã luyện chảy, mà tôi vừa rút từ thứ quặng xấu xí kia.
- Thế ngài có thực hiện được việc chuyển hóa các chất thành vàng cũng đơn giản như thế này không? - Linh mục hỏi.
- Tôi không thực hiện bất cứ sự chuyển hóa nào từ chất này sang chất khác. Tôi chỉ đơn giản làm công việc rút kim loại quý từ những quặng đã chứa sẵn chất kìm loại đó, nhưng dưới dạng phi kim loại.
Ông thầy tu có vẻ không tin lắm. Ông ta hắng giọng và đưa mắt nhìn quanh. Ông gật gù và thận trọng lại gần một lò lửa đang cháy rào rào, trong đó có mấy cái lò đúc đựng kim loại chảy lăn tăn hoặc sục sôi đỏ rực. Ông nói:
- Đây thật là một phòng thí nghiệm tuyệt vời! Vậy ra, theo như Đức cha cho biết, ngài đã thành công trong việc tạo ra được chất vàng ở dạng chưa ổn định có thể nổ được, phải không ạ?
- Không giấu gì ông, tôi còn có thể tạo ra chất thủy ngân ở dạng dễ nổ tung.
Ông linh mục kể chuyện:
- Có lần tôi đã nuôi hy vọng lớn sẽ thành công trong thí nghiệm của mình. Đó là khi một nhà du lịch, trong dịp bị đắm tàu dạt vào bờ biển xa lạ, đã mang về cho tôi ít đất còn “trinh bạch” chưa từng in dấu vết chân người, theo lời ông ta nói. Quả thật, một miếng đất hoàn toàn trinh bạch thì chứa đựng hạt giống hoặc mầm mống của các kim loại, nói cách khác đó chính là loại đá tạo vàng. Nhưng chắc hẳn miếng đất người ta cho tôi không được hoàn toàn trinh bạch, bởi vì tôi dùng nó mà không bao giờ đạt được những kết quả thí nghiệm mong đợ
Ông linh mục kết luận với vẻ mặt tiu nghỉu, khiến Angiêlic cũng suýt bật cười. Nàng vội hỏi để đánh lạc hướng:
- Thế có phải, ông Perắc, ông đã có lần kể với tôi chính ông đã từng bị đắm tàu dạt vào một hòn đảo hoang vu, chỉ có toàn sương mù dày đặc và nước đóng băng?
Linh mục Bêse đứng bật dậy, nắm lấy vai Bá tước với đôi mắt sáng lên:
- Ngài đã bị đắm tàu ở vùng đất chưa ai từng đến ư? Tôi biết mà, tôi chắc chắn là thế. Thành ra ông chính là con người mà những sách kinh điển về luyện đan nói đến, con người đã trở về “từ mặt phía sau của thế giới, ở nơi đó người ta chỉ nghe tiếng sấm sét dinh tai, gió hú, mưa dầm, mưa đá tuôn rơi”. Đó chính là nơi người ta sẽ tìm thấy thứ quý giá, nếu người ta biết tìm kiếm.
- Nơi đó cũng gần đúng như ông mô tả, - Bá tước nhận xét một cách thản nhiên. Tôi muốn tả thêm là có cả một núi lửa phun giữa những đám băng vĩnh cửu. Không có lấy một bóng người. Nơi đó quanh quẩn vùng mũi đất Tiera-đen-Phuêgiô, tên này nghĩa là Đất lửa. Lần ấy tôi đã được một tàu buôn Bồ Đào Nha cứu thoát.
- Tôi sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời và thậm chí cả linh hồn mình để có được một miếng đất trinh bạch đó! - Linh mục Bêse kêu lên.
- Khốn thay, thưa cha, tôi xin thú nhận rằng tôi chưa hề mang từ xứ đó về đây bất cứ vật nhỏ nào.
Người linh mục đưa con mắt rầu rĩ và nghi ngờ nhìn Bá tước. Angiêlic thấy rõ ông ta không tin lời chồng nàng.
Bá tước Perắc, người thọt chân cao lớn xứ Lănggơđốc đưa mắt đầy kiêu hãnh, mỉa mai nhìn hai người khách đang nói chuyện với mình. Ông thậm chí chẳng mất công sức che giấu sự coi thường của mình đối với ngài Đông Kisốt về khoa luyện đan và chàng tùy tùng diêm dúa Xăngxô Păngsa của lão.
Đối diện với hai nhân vật lố bịch đó, Angiêlic thấy Bá tước cao lớn, thoải mái và phi thường đến nỗi một cảm giác không gì cưỡng nổi tràn ngập tim nàng, khiến nàng nghẹn ngào.
“Tôi yêu anh ấy. - Nàng nghĩ thầm - Tôi yêu anh ấy và tôi sợ. Ôi! Miễn là họ đừng làm hại anh...”