Angélique rùng mình, Ngài de Breteuil? Cái tên ấy rất quen thuộc đối với nàng. Nàng đã gặp nhà ngoại giao này ở Versailles, Phu nhân Los Cobos giúp nàng nhớ lại bằng những tiếng kêu to “Si si” (Tiếng Tây Ban Nha là “vâng”). Đúng thế, Ngài de Breteuil đang ở Ceuta để thi hành một sứ mệnh đặc biệt. Ngài vừa mới đến trên chiếc tàu Royal để theo lệnh Đức Vua Louis XIV cứu giúp một phu nhân quý tộc vừa rơi vào tay Mulai Ismail trong một cuộc hành trình đầy hiểm nguy. Angélique nhắm mắt lại. Trái tim kiệt quệ của nàng đập nhanh hơn. Thế là thông điệp nàng trao cho Cha de Valombreuse đã đến tay người nhận! Đức Vua đã nghe thấy tiếng kêu cứu của kẻ bỏ trốn Người. Ngài de Breteuil được Vua Pháp ủy quyền, mang đầy lễ vật để xoa dịu trái tim quốc vương Berber, đang cố đến tận Meknès để thương lượng việc phóng thích bà hầu tước liều lĩnh. Cái tin một người phụ nữ sống dở chết dở vừa trốn khỏi một hậu cung Maroc và đang ở Ceuta được thông báo cho Đại sứ Pháp. Ngài lập tức đến thăm cái tu viện nhỏ của các Cha dòng chúa cứu thế, nơi bà kia được đưa đến. Lúc đầu Ngài hơi phân vân không nhận ra Angélique. Ngài nói thế, vì nàng thay đổi quá nhiều sau những chặng đường cuối cùng đầy gian khổ.
Bàn tay Angélique sờ soạng quanh mình trên khăn trải giường. Nàng đang tìm kiếm một bàn tay khác. Chiến hữu của nàng ở đâu? Việc gì đã xảy đến với chàng? Nỗi lo đè nặng trên tim nàng như một tảng đá nàng không tài nào nhấc khỏi. Nàng không dám hỏi, vì nàng hầu như không đủ sức thốt lên lời. Nàng chỉ còn nhớ lại mỗi một điều là chàng đã cùng ngã xuống với nàng dưới vó ngựa của các kỵ binh Tây Ban Nha. Thế rồi nàng thấy Ngài de Breteuil đứng cạnh giường nàng. Những cuộn tóc giả được chải chuốt cẩn thận trên chiếc áo lụa thêu chỉ vàng của Ngài. Mang chiếc mũ ở chỗ gập cánh tay, Ngài cúi chào nàng, mũi giầy đưa về phía trước, gót giày màu đỏ đập vào nhau rất trang nghiêm.
- Thưa phu nhân, tôi nhận được tin về sức khỏe của bà và vội đến đây vấn an.
- Cảm ơn Ngài - Angélique nói.
Hẳn là nàng đã ngủ trong khi người đàn bà Tây Ban Nha kể lể dông dài…Nàng cảm thấy dễ chịu. Nàng nhìn quanh tìm bà Inze, nhưng bà ta đã rút lui, tỏ ra bất bình về việc một người đàn ông đến thăm một người phụ nữ tại phòng riêng. Bọn người Pháp này có coi những chuyện như vậy ra gì đâu. Ngài de Breteuil ngồi xuống một chiếc ghế đẩu bằng gỗ mun. Ngài lấy trong túi áo ra một hộp kẹo mời Angélique, và cũng mút vài chiếc. Ngài rất phấn khởi. Ngài nói rằng sứ mệnh của Ngài đã hoàn toàn thành công một cách nhanh chóng không ngờ. Đó là nhờ sự dũng cảm của phu nhân de Plessis-Bellière, người đã trốn thoát cảnh tù đầy, mà sự gan lì đến trơ trẽn và sự bất tuân mệnh lệnh của Đức Vua đã đẩy nàng vào. Ngài tiếp tục lên lớp với cái giọng trịch thượng đáng ghét giống như bất cứ kẻ bất tài nào khác. Đức Vua đã nổi cơn thịnh nộ khi Người phát hiện hành vi chưa từng có của bà quả phụ Thống chế nước Pháp. Ngài de La Rayni, người chịu trách nhiệm giữ không cho Angélique rời khỏi Paris, đã bị công khai quở trách và suýt bị cách chức vì sơ suất. Triều đình - và cả cảnh sát nữa - đã bị tra hỏi rất lâu về chuyện bà mệnh phụ xinh đẹp đã trốnParis bằng cách gì. Có người nói nàng đã quyến rũ một quan chức cảnh sát cao cấp và ông này đã để nàng cải trang làm một quản ngục chuồn ra khỏi thủ đô. Nhưng điều buồn cười nhất là sự tự mãn ngây thơ của Nam tước de Vivone; ông này đã huênh hoang với Đức Vua là có gặp Angélique ở Marseille và đưa nàng lên tàu galê. Ông không hiểu tại sao sau đó người ta tỏ ra rất lạnh nhạt với ông. Ngài de Breteuil húng hắng ho vào cổ tay áo. Cặp mắt soi mói của Ngài - cũng ngớ ngẩn như mắt gà trống, nàng nghĩ bụng - không bao giờ rời người đàn bà đang nằm trên giường trước mặt Ngài. Ngài liếm liếm đôi môi nghĩ đến những bí mật nàng sắp nói ra, mà Ngài sẽ là người đầu tiên được nghe. Xem chừng nàng vẫn còn rất mệt và hơi đãng trí, nhưng chắc chắn chẳng mấy chốc nàng sẽ hồi phục tinh thần. Bây giờ nom nàng khác hẳn cô gái bơ vơ thảm hại cách đây mấy hôm. Ngài kể cho nàng nghe lần đầu tiên Ngài trông thấy nàng như thế nào. Lúc đó nàng gần như lõa lồ, quần áo rách bươm, hai bàn chân rớm máu, bộ mặt vàng vọt, đôi mắt thâm quầng nhắm nghiền lại. Nàng nằm im trong vòng tay một tên khổng lồ ngực đầy lông lá, hắn đang cố đổ vào mồm giữa đôi môi mím chặt một ít nước chè pha rượu rum mà bác sĩ Dòng tu đã chế sẵn. Trời ơi, cảnh tù đầy giữa bọn dã mạn tàn bạo kia đã hạ thấp con người văn minh đến mức này sao? Lạy Chúa có thể như thế được sao? Phải chăng đây đúng là bà Hầu tước kiêu kỳ mà Ngài đã từng cùng khiêu vũ ở Versailles? Bà mệnh phụ mà Đức Vua đã đi cùng suốt chiều dài của dải thảm màu xanh lục? Ngài không tin vào mắt mình. Không, không lẽ nào đây lại là người đàn bà mà để cứu nàng Hoàng thượng đã trang bị cả một chiếc tàu và đã biết vận dụng toàn bộ tài năng ngoại giao của Ngài và đã cử Ngài đi gặp Mulai Ismail. Nhưng có một cái gì đó ở con người khốn khổ này - có lẽ là đầu tóc và những khớp xương mảnh mai thanh tú của nàng - đã khiến Ngài do dự. Rồi sau khi tra hỏi, tên nô lệ đi cùng nàng nói rằng y không biết rõ tên họ nàng, chỉ biết nàng tên là Angélique. Vậy là đích thị nàng rồi! Angélique de Plessis- Bellière! Người tình của Vua Louis XIV. Người quả phụ của Thống chế Pháp đã hy sinh trong trận mạc! Địch thủ lợi hại của Phu nhân Montespan và là hòn ngọc của Versailles. Ngay lập tức nàng được đưa đến chỗ Thống đốc thành phố. Ngài de Los Cobos y Perrandez, và vợ Ngài Thống đốc được chỉ thị phải tận tình chăm sóc nàng. Angélique nuốt mạnh. Đói và khát đã khiến nàng phản ứng rất kỳ lạ. Chỉ thoáng nhìn thấy thức ăn, thậm chí bánh kẹo, là nàng ngất xỉu. Song sau khi ăn, nàng cảm thấy cơn đau trở lại.
- Người bạn đường của tôi ra sao? - Nàng hỏi.
Sau khi Ngài đi rồi, Angélique cứ suy nghĩ mãi. Hình như nàng nhìn thấy một ánh nham hiểm trong mắt Ngài, mà nàng chẳng hiểu lý do tại sao. Tối đến phu nhân Inez đỡ nàng ngồi dậy và đi vài bước. Ngày hôm sau nàng mặc áo dài Pháp mà Ngài de Breteuil đã mang theo trong hành trang của mình. Bà mệnh phụ Tây Ban Nha, người bó cứng trong chiếc váy phồng to tướng nom như chiếc thúng đang là thời trang của Triều đình Tây Ban Nha, nhìn những tấm xatanh mềm mại thướt tha quấn quanh chiếc eo thanh mảnh của Angélique với đôi mắt đầy thán phục. Angélique hỏi xin một ít kem thoa mặt, nàng ngồi rất lâu trước tấm gương lồng trong chiếc khung chạm trổ hình các tiểu thiên sứ. Vừa chải tóc nàng vừa nghĩ đến chiếc hồ nước râm mát dưới dòng thác. Cũng như ngày ấy, giờ đây nàng nhìn thấy mái tóc vàng đã ngả màu trắng dưới ánh mặt trời gay gắt của sa mạc Châu Phi. Nhưng nó vẫn ôm lấy khuôn mặt ngây thơ của một thiếu nữ dậy thì. Một đường rạch ròi phân cách hai màu da trắng muốt và sạm nắng. Cố nhiên thân nàng mang sẹo, nhưng nàng nom vẫn trẻ. Nàng đã thành một con người khác! Nàng đeo một sợi dây chuyền vàng quanh cổ để che giấu đường cong xấu xí kia. Nàng thấy dây đeo áo nịt ngực cũng thoải mái nhưng đôi lúc theo bản năng nàng vẫn đưa tay như muốn kéo chiếc burnous để che đôi vai trần. Cuối cùng nàng chăm chú xem xét căn phòng của mình. Những tấm thảm tối màu treo trên tường không hoàn toàn che khuất cấu trúc một pháo đài. Đứng trên ban công bên ngoài cửa sổ nàng có thể nhìn thấy cảnh đi lại tấp nập trên con đường chật hẹp bên dưới dẫn đến đất cảng tua tủa cột buồm. Biển rất xanh và nàng thoáng trông thấy các bờ biển Tây Ban Nha. Ngả người trên lan can, chiếc quạt giấy cầm tay, mắt nàng đăm đăm nhìn về những bến bờ châu u. Bỗng nàng trông thấy hai thủy thủ đi về hướng cảng. Họ đi chân đất, đội mũ trùm len màu đỏ, vai mang những bao hàng rất to. Một người trong số họ đeo khuyên vàng. Hình dáng người kia Angélique nom rất quen nhưng mãi đến khi chàng đi qua dưới cửa tò vò ở hốc bậc cấp dẫn đến bến, nàng mới nhận ra trong ánh sáng mờ vóc người cao lớn và đôi vai rộng của chàng. Lúc đó nàng mới nhận ra chàng.
- Colin Paturel!
Chàng quay nhìn lại. Đúng là chàng rồi. Chòm râu vàng hoe đã được cắt tỉa gọn gàng và người chàng đang bó chặt trong bộ trang phục mới bằng vải thô, thay thế cho chiếc sơ mi và cái quần tả tơi thời nô lệ. Nàng vẫy tay thật mạnh. Cổ họng nàng như thắt lại không tài nào gọi chàng được nữa. Chàng ngập ngừng, rồi quay gót mắt không rời người đại mệnh phụ ăn mặc cực kỳ lộng lẫy đang tựa vào ban công nhìn xuống. Cuối cùng nàng thốt lên thành tiếng:
- Cửa mở kìa. Lên nhanh nào!
Hai bàn tay cầm quạt lạnh buốt. Khi nàng quay trở lại phòng chàng đã đứng ở khuôn cửa, chàng khác hẳn hình ảnh nàng ôm ấp bấy lâu nay, đến nỗi nàng phải nhìn vào hai bàn tay đầy sẹo mới thực sự nhận ra chàng. Một cái gì đó đã kết thúc. Nàng không biết rõ cái gì. Nhưng nàng không còn xưng hô quá thân mật với chàng được nữa.
- Anh có khỏe không, anh Colin? - Nàng khẽ hỏi.
- Khỏe. Chắc bà cũng thế.
Đôi mắt xanh của chàng đang trân trân nhìn nàng với cái nhìn sắc nhọn nàng đã từng biết rõ, Colin Paturel, vua của nô lệ. Chàng nhìn thấy sợi dây chuyền vàng quanh cổ nàng, đầu tóc tuyệt mỹ của nàng, những lớp váy rộng quanh eo nàng, và chiếc quạt cầm ở tay.
- Anh đi đâu mà mang bao tải trên vai thế? - Nàng hỏi để phá tan sự im lặng.
- Đi về bến tàu. Hôm nay tôi đáp tàu Bonaventure, một tàu buôn, đi đến miền Đông u. Angélique cảm thấy mặt trắng nhợt.
- Anh đi xa… mà không nói với tôi một lời từ biệt? Colin Paturel thở dài rất sâu, đôi mắt chàng lạnh lùng.
- Tôi là Colin Paturel quê ở Saint-Valery en Caux - chàng nói - còn bà là một bà quý tộc, một bà hầu tước, hình như thế, quả phụ của một Thống chế nước Pháp. Và Vua Pháp đã cử một chiếc tàu đi tìm bà. Có đúng thế không?
- Vâng, đúng thế, nàng lắp bắp - nhưng đó không phải là một lý do để anh ra đi không nói lời từ biệt với tôi.
- Đã một thời đó có thể là một lý do rất tốt - chàng ôn tồn nói - Đã một thời, khi bà đang ngủ - chàng thủ thỉ - Tôi vẫn nhìn bà và nói: “Cô gái bé bỏng này, ta chẳng biết gì về nàng, và nàng hầu như chẳng biết gì hơn về ta. Việc hai đứa cùng là nô lệ Cơ đốc ở Barbary là điều duy nhất đã đưa hai đứa lại với nhau. Song… ta cảm thấy nàng rất giống ta. Nàng đã đau khổ, đã bị xỉ nhục, nhơ nhuốc… Thế nhưng nàng vẫn ngẩng cao đầu. Nàng đã bị cuộc đời vùi dập, và đã thấy được nhiều điều trên thế gian này, thấy được những gì nó tạo dựng nên. Tôi cảm thấy nàng cũng một loại người với ta..!” Vì thế tôi vẫn thường tự nhủ: “Một ngày nào đó, khi hai đứa thoát khỏi cái địa ngục này và cập bến quê hương… dưới bầu trời u ám và mưa bụi… lúc đó ta sẽ…dỗ dành nàng để nàng kể lại đầu đuôi. Và nếu nàng bơ vơ đơn độc trên cõi đời này… và nếu nàng bằng lòng, thì ta sẽ đưa nàng về ngôi nhà nhỏ của ta ở Saint-Valery en Caux. Nó không lớn lắm, nhưng xinh xắn… mái lợp rạ và có ba cây táo. Ta có ít của cải dành dụm được giấu kín dưới một hòn đá ở nền lò sưởi. Có lẽ, nếu nàng thích ở đấy, ta sẽ bỏ nghề đi biển… nàng sẽ giữ chân ta để ta khỏi lang thang… hai đứa sẽ mua một đôi bò sữa…”.
Chàng im bặt, cằm bạnh ra. Rồi đứng thẳng người lên, chàng quay lại nhìn nàng, với cái nhìn ngạo nghễ, khủng khiếp ngày trước chàng đã nhìn vào mặt tên Mulai Ismail khát máu.
- Nhưng… bà không phải dành cho tôi! Thế thôi. Nỗi căm giận sôi sục, chàng gầm to.
- Tôi sẵn sàng tha thứ cho bà mọi chuyện. Tôi sẵn sàng chấp nhận quá khứ của bà. Nhưng điều đó thì không! Giá như tôi biết trước, tôi đã để mặc bà cho chúng xé xác bằng những chiếc kìm nung đỏ. Những kẻ quyền quý cao sang tôi không chịu nổi. Angélique hét lên, giọng căm phẫn:
- Colin, anh nói không đúng. Anh nói dối. Thế Hiệp sĩ Marmondin và Hầu tước Kermoeur thì sao?
Chàng liếc nhìn về phía cửa sổ như thể nhìn thấy ở các pháo lũy Ceuta những bức tường cao ngất ngưởng của Meknès.
- Có cái khác đấy. Chúng tôi đều là tín đồ Cơ đốc. Chúng tôi đều là những nô lệ nghèo khổ.
Chàng gục đầu, như thể một lần nữa vai chàng trĩu xuống dưới những bao đá nặng mà bọn nô lệ vừa chất trên lưng chàng.
- Tôi có thể quên đi cực hình tra tấn - chàng nói - Tôi có thể quên chiếc thánh giá. Nhưng điều đó tôi không bao giờ quên được. Bà đã đặt trên vai tôi một gánh nặng, thưa bà, một gánh rất nặng. Và nàng cũng thế, nàng biết rằng nàng đã làm trái tim chàng trĩu nặng như thế nào, và chàng sẽ còn mang mãi gánh nặng ấy suốt đời.
Hai khóe miệng của Angélique bỗng rung lên, và dáng hình cao lớn của Colin Paturel hình như biến dần sau màn sương của những giọt nước mắt lăn trên má nàng. Chàng cúi xuống nhặt cái bao và ném lên lưng. Đoạn chàng nhấc chiếc mũ đỏ, nói như thủ thỉ: Vĩnh biệt, thưa bà. Thượng lộ bình an! Chàng bước ra cửa.
Nàng lao vào phía hành lang, tựa mình bên bao lơn nhìn xuống, nhưng chàng đã đến gần cầu thang. Nếu chàng ngẩng lên, liệu chàng có nhìn thấy những giọt lệ trên má nàng không. Liệu chàng có nhớ chúng không? Liệu chúng có xoa dịu phần nào trái tim thương tật của chàng không? Nàng chẳng bao giờ biết được. Nàng đành đứng đó khóc, lồng ngực phập phồng vì những tiếng nức nở đau đớn.
Không thể tự giam hãm mãi trong phòng, nàng đi ra ngoài dạo chơi trên công sự. Nàng cần có không khí biển trong lành để quên đi nỗi buồn da diết. Các khẩu đại bác trên bến cảng yểm hộ cho tàu bè ra đi. Một trong những chiếc tàu kia đang chuẩn bị rẽ sóng ra khơi, những cánh buồm trắng phốp đang trải trên bầu trời xanh. Phải chăng đó là chiếc tàu đang chở Colin Paturel, ông vua nô lệ, đi xa nàng mãi mãi? “Đời thật dớ dẩn!” - nàng nghĩ thầm, nước mắt giàn giụa.
- Ôi, Địa Trung Hải! Biển của chúng ta! Mẹ của chúng ta! Mẹ của chúng ta! Chiếc nôi màu xanh, tấm lòng bao la mặn mà của nhân loại, mang nặng các giống nòi, ấp ủ mọi giấc mơ! Chiếc vạc phù thủy, nung nấu mọi đam mê! Nàng có cảm giác nàng đã tiến hành chuyến đi này chỉ để quên đi hình ảnh người chồng cũ, để phát hiện ra rằng cho đến lúc ấy ký ức của nàng về chàng đã tan biến vào cõi hư vô. Trên những bến bờ này đã từng chứng kiến bao nhiêu đế chế sụp đ mọi thứ đều biến thành cát bụi. Giờ đây nàng mệt mỏi lắm rồi. Nàng nghĩ rằng nàng đã hy sinh quá nhiều cho một mục đích chẳng bao giờ đạt đến, cho một ý tưởng ngông cuồng tàn nhẫn. Như trước kia Canto đã gọi “Bố ơi! Bố ơi!” trước khi chìm vào sóng cả, nàng cũng đã kêu “Tình yêu của em!” Nhưng không có gì đáp lại. Ý tưởng ngông cuồng của nàng, giấc mơ hạnh phúc của nàng, đã tan biến theo nhịp độ chậm chạp của những cánh buồm trắng phau ở chân trời xa tít, trong hương vị cà phê và trong tên gọi của các thành phố sôi động đầy bí ẩn - Candia, thành phố của cướp biển; Meknès, nơi các nô lệ trút hơi thở cuối cùng trong những khu vườn đẹp tựa cảnh bồng lai; Fez, thành phố có nghĩa là “vàng”.
Giờ đây nàng không khóc cho những kế hoạch bất thành và cho những giấc mộng vỡ tan nhiều bằng khóc cho những ký ức mãi trong lòng nàng về Osman, viên Đại hoạn quan; cho Colin Paturel, chàng nô lệ bị đóng đinh câu rút, thậm chí cho cả Mulai Ismail ác độc, mà đối với hắn cầu nguyện và dục vọng đặt ngang hàng; và cuối cùng cho nhân vật cao gầy bí hiểm, Rescator, mà Đại hoạn quan đã nói: “Tại sao bà trốn chạy? Các vì sao đã ghi lại sự tích của bà và ông ấy, sự tích kỳ lạ nhất chưa từng có trên đời”. Từ xa giọng nói điên dại của d’Escrainville vang lên: “Chính vì mi mà nàng đã ngẩng lên nhìn với vẻ mặt một kẻ đang yêu, tên phù thủy đáng nguyền rủa của Địa Trung Hải kia!” Nhưng ngay cả điều đó cũng không đúng. Một lần nữa cơn gió lừa phỉnh đã làm rối tinh mọi vận mệnh, và khuôn mặt đáng yêu của nàng đã ngước nhìn duy chỉ một chàng thủy thủ nghèo khổ đã cõng nàng như mang một vật báu lấy cắp được trong một cuộc phiêu lưu khủng khiếp nhất trần gian.
Mọi thứ đều rối tinh, mọi thứ đều đặt thành câu hỏi nhưng Angélique bắt đầu nhìn thấy một chân lý trong mớ hỗn tạp kia. Người thiếu phụ nàng ngắm nghía trong hồ nước, người thiếu phụ tắm trong ốc đảo, và người thiếu phụ đứng im dưới ánh trăng không có điểm chung nào với người mệnh phụ cách đây chưa đầy một năm đã mạt sát xỉ vả phu nhân Montespan dưới ánh nến sáng choang ở cung điện Versailles. Ngày đó nàng đã là một người đàn bà nhiễm những sự đồi bại, dính vào những mưu toan thủ đoạn, cuộc sống phóng đãng, tằng tịu; nàng đã luồn lách khéo léo trong dòng nước đục của những liên kết bè cánh tồi tệ nhất. Tâm hồn nàng đã vẩn đục và đã chung chạ quá nhiều với những kẻ đáng kinh tởm. Nghĩ đến chỉ riêng chặng đường đời ấy của mình Angélique đã thấy tởm lợm muốn nôn mửa. Không bao giờ, nàng tự nhủ, không bao giờ nàng quay trở lại với họ! Nàng đã được bầu không khí ngát hương tuyết tùng tắm gội và làm thanh khiết trở lại. Ánh nắng mặt trời sa mạc đã đốt cháy sạch sành sanh những độc tố trong nàng. Giờ đây nàng sẽ mãi mãi nhìn thấy “họ” đúng với thực chất của họ. Nàng sẽ không còn chịu đựng được sự ngu ngốc vênh váo ghi đậm nét trên bộ mặt của một tên de Breteuil, hay cố gắng để trả lời hắn một cách lịch sự. Dĩ nhiên, nàng quyết đi tìm hai con Florimond và Charles-Henri, nhưng nếu vậy nàng sẽ lại ra đi. Đúng, nàng sẽ lại ra đi! Nàng sẽ đi đâu? Lạy Chúa lòng lành, liệu trên trái đất bao la này có được nơi nào mà một tên Breteuil có quyền khinh miệt một Colin Paturel không, hay một Colin Paturel sẽ không cảm thấy bị sỉ nhục vì yêu một mệnh phụ phu nhân ở Triều đình?
Một thế giới mới nơi mà những ai giàu lòng nhân ái và thiện chí, dũng cảm và thông minh, sẽ nắm quyền cai quản, và những ai thiếu các đức tính trên sẽ mãi mãi là kẻ thuộc hạ. Nàng có thể tìm thấy một miền đất nguyên sơ, nơi những người có thiện chí được hân hoan chào đón không? Ôi thượng đế… biết tìm ở nơi đâu?
Hết tập 4
[1] Một đoàn thương nhân hay hành hương cùng đi với nhau qua một sa mạc chẳng hạn để được an toàn.
[2] Tiếng Arập nghĩa là ngọc lam.
[3] Một dòng tu của đạo cơ đốc, cho rằng Chúa gồm có ba ngôi: Cha, Con và Thánh thần.
[4] Tiền vàng xưa của châu u. (N.D.)