Angélique cảm thấy vòng vây ngày càng thắt chặt. Nàng có thể bị sập bẫy bất cứ lúc nào. Người ta không thể giấu Mulai Ismail mãi được, và đến ngày nào đó hắn sẽ hỏi đến nàng. Khi dạo chơi trên các lối mòn trong vườn nàng cứ thắc mắc mãi về tính cách của Mulai Ismail. Con người này đã tạo dựng nên bao chốn hữu tình, đã nhảy từ thái cực này sang thái cực kia. Hắn có thể quẳng nô lệ vào hầm sư tử, nghĩ ra bao nhiêu trò tra tấn khủng khiếp khiến nạn nhân chỉ còn mỗi một lối thoát là tự sát. Thế mà hắn lại yêu hoa, thích nghe tiếng suối reo róc rách, thích chim muông và phó thác linh hồn mình cho Thánh Allah. Kế thừa lòng dũng cảm vô biên của vị Tiên tri, hắn có thể thú nhận với Mohammed. “Bao giờ con cũng yêu đàn bà, hương thơm và lời cầu nguyện. Nhưng chỉ có lời cầu nguyện là thỏa mãn linh hồn con…”. Chung quanh nàng các cung
phi hết mơ màng và bày mưu tính kế lại xì xào bàn tán. Tất cả những người này đã buông thả cho đam mê nhục dục trong cái thân thể diễm kiều của họ, những bộ tóc mềm mại, mượt mà bôi dầu thơm phức được sửa sang cho Quốc vương ve vuốt. Chẳng còn lý do tồn tại khác, họ sống trong niềm hy vọng được Chúa thượng ban phát cho những giây phút đê mê. Họ không chịu đựng nổi cảnh sống an nhàn và tiết d, bởi vì họa hoằn lắm Chúa thượng mới hạ cố đặt chân đến phòng của một trong số hàng trăm cung nữ ở hậu cung. Những tiên nữ được dành cho chỉ một người đàn ông độc nhất thường tìm cách hại nhau trong cơn tuyệt vọng. Họ vô cùng ghen ghét Daisy và Leila Aisheh, hai người duy nhất hình như tìm ra và ra sức giữ kín những bí mật của trái tim kỳ dị này. Họ đến phục vụ hắn trong những bữa ăn, thỉnh thoảng hắn hỏi ý kiến họ, nhưng họ đều không quên rằng kinh Koran chỉ cho phép một tín đồ chân chính lấy bốn vợ. Ai trong bọn họ sẽ là người thứ ba? Mụ Fatima rất bực mình về chuyện bà chủ mà ngày nào mụ cũng chăm chút tô điểm vẫn chưa được tiến cử và trở thành ái phi của Quốc vương, Quốc vương phải trông thấy nàng mới được. Trong hậu cung chẳng ai sánh kịp Angélique. Trong các gian phòng thiếu ánh sáng, nước da của nàng nom đẹp hơn, và đôi mắt xanh của nàng ngời sáng lạ thường trên gương mặt ửng hồng. Fatima dùng lá mòng xanh pha với sữa để bôi lên mí mắt của nàng khiến chúng nom mềm mại như nhung. Mụ lại dùng các loại hương thảo để gội đầu cho nàng, khiến cho mớ tóc dày của nàng mượt mà óng ả như tơ. Hàng ngày nàng được tắm bằng sữa quả hạnh và nước hoa súng, nên làn da nàng mịn và trắng hồng. “Nàng đã sẵn sàng - Fatima nghĩ thầm - Họ còn đợi gì nữa?”. Mụ tâm sự với Angélique về nỗi ngờ vực và sốt ruột của mụ, cảm thấy như một nghệ sĩ bị người đời phớt lờ kiệt tác của mình. Sắc đẹp của nàng giữa đám đàn bà con gái này chẳng có ích gì. Thời cơ đã đến, cần phải giới thiệu nàng cho Quốc vương thôi, để Hoàng thượng chọn nàng làm vợ thứ ba. Từ đó trở đi nàng chẳng còn phải sợ tuổi già, hay nguy cơ bị đẩy vào một hậu cung xa xôi hẻo lánh, hay còn tệ hơn nữa, cho vào làm trong các nhà bếp để lao lực cho đến lúc tuổi già sức yếu. Đại hoạn quan không đếm xỉa gì đến tâm trạng lo lắng sốt ruột của hai người, vì y đã nhìn thấy trước và vì nó rất hợp với kế hoạch của y. Y không ngồi yên nhìn tháng ngày lặng lẽ trôi qua. Một lần nữa y nghĩ rằng y đã nhận thấy một dấu hiệu mới, và coi người cung phi y vừa tạo dựng nên như là những bức tranh tội lỗi của các họa sĩ Ý. Y khẽ gật đầu. “Ta đọc được trên các vì sao…” - Y nhủ thầm. Điều y đã nhìn thấy nhưng không nói ra được khiến y phân vân. Y ngồi suốt đêm này qua đêm khác trên đỉnh một ngọn tháp ở quảng trường, dùng kính viễn vọng nhìn khắp bầu trời. Kính viễn vọng của y tốt vào bậc nhất trên đời. Đại hoạn quan có những điểm yếu của một kẻ sưu tập. Ngoài các dụng cụ quang học y còn sưu tập cả các loại ngọc trai Ba Tư và có nhiều thứ rất quý. Y cũng thích rùà nuôi đủ loại trong vườn ở các biệt thự vùng núi, là nơi Mulai Ismail lưu đày các cung phi bị rẻ rúng. Những con người khốn khổ này không những mãi mãi bị đuổi khỏi Meknès, mà phải sống những ngày còn lại cuộc đời bên cạnh những con quái vật mà Đại hoạn quan đã nhiều lần đến đây thăm. Tuồng như y xuất hiện ở khắp mọi nơi. Lúc nào người ta ít cần đến y nhất và ít mong đợi y nhất là y lại xuất hiện. Mulai Ismail luôn luôn thấy y bên cạnh mình, mỗi khi hắn chợt nghĩ ra điều gì mà muốn hỏi ý kiến của y. Y thường xuyên đến thăm các thủ lĩnh, thường xuyên nhận được báo cáo của bọn do thám. Y hay đi đây đi đó, nhưng vẫn có vẻ ngày ngày suy ngẫm về sự hoàn thiện của các loại men sứ Ba Tư, và đêm đêm dán chặt mắt vào các vì sao. Nhưng tất cả những việc đó vẫn không ngăn được y mỗi ngày phủ phục năm lần thực hiện các nghi lễ Hồi giáo. Vị Tiên tri nói: “Hãy làm công việc của cõi đời này như thể người phải mãi mãi sống ở đây và công việc của cõi đời kia như thể ngày mai người sẽ đến đấy”. Y vẫn thường nhắc đi nhắc lại. Ý nghĩ của y như thể tự chúng bí mật truyền đến đám đàn ông và đàn bà quanh y. Y như con nhện nằm chờ, y giăng tơ bủa vây họ khiến họ không tài nào thoát khỏi lưới.
- Phải chăng bà đang mòn mỏi đợi chờ những hoan lạc của xác thịt? Đã lâu lắm rồi bà chưa biết đến đàn ông - Có lần y hỏi nàng.
Angélique quay nhìn chỗ khác. Nàng thà bị băm ra từng mảnh chứ không bao giờ thú nhận đang bị cơn sốt dày vò. Và nàng tự nhủ: “Một người đàn ông! Người nào cũng được!”
Osman Faraji dấn tới:
- Cái thân thể đàn bà của bà vốn chẳng sợ một người đàn ông nào, vốn khát khao một người đàn ông và không ngại các cung cách của họ như nhiều cô gái không lọc lõi thường vẫn ngại, liệu có rạo rực đòi hỏi ai đó không? Mulai Ismail sẽ thỏa mãn bà. Hãy quên đi, đừng lo nghĩ vẩn vơ, mà chỉ nên nghĩ đến các lạc thú đang chờ đón bà. Bà có muốn tôi trình bà với Quốc vương không?
Y ngồi trên một chiếc ghế thấp cạnh nàng. Không hiểu sao Angélique cảm thấy mình bị y cuốn hút. Nàng mơ màng nhìn y, nhìn kẻ bị trục xuất khỏi vương quốc tình yêu. Y khuấy động trong lòng nàng những tình cảm lẫn lộn, vừa ghê tởm lại vừa khâm phục. Và nàng bỗng cảm thấy lòng nàng tràn ngập một nỗi buồn khôn tả, khi nàng nhận thấy trong con người này những dấu hiệu của địa vị đáng thương của y. Chiếc cằm sệ xuống, những cánh tay tròn trĩnh mịn màng và bên dưới lần áo chẽn cặp vú nần nẫn của các hoạn quan già.
- Osman Bey - nàng cao hứng nói - Làm sao ông lại có thể nói những điều như thế? Có bao giờ ông thấy mình thiếu cái quyền được nói chuyện yêu đương?
Osman nhíu mày và gần như cười hóm hỉnh:
- Firousi ạ, chẳng ai lại cảm thấy thiếu những gì mà mình không có bao giờ. Liệu bà có thèm muốn địa vị của thằng điên lúc nào cũng cười sằng sặc không? Hắn hạnh phúc theo cách của hắn. Những ảo giác của hắn khiến hắn hài lòng. Song chẳng bao giờ bà lại muốn chia sẻ số phận của hắn và bà cám ơn Thánh Allah là bà đã không giống hắn. Tôi cho rằng đôi khi một người đàn ông bỗng trở thành một con hươu đực lao theo con cái đần độn nhất, do những thôi thúc của dục vọng. Thánh Allah đã giúp tôi thoát khỏi những ràng buộc nhục nhã đó. Thế nhưng tôi vẫn thừa nhận sức mạnh của quyền lực ấy và tôi đã cố hướng nó vào những mục đích của mình. Đó là việc tăng cường uy quyền của Maroc và làm thanh khiết đạo Hồi.
Angélique chống cùi tay nhổm lên, bị cuốn hút bởi tham vọng của con người này muốn cải tạo thế giới theo ý muốn của mình.
- Osman Faraji, người ta nói ông đã hướng dẫn Mulai Ismail đi đến quyền lực tối cao và đã mách bảo hắn phải tự tay giết người nào hoặc ra lệnh giết người nào để đạt được tới mục đích đó. Nhưng có một tội mà ông chưa phạm, đó là tội giết hắn ta! Tại sao ông lại duy trì tên bạo dâm ấy trên ngai vàng của Vương quốc Maroc? Ông chẳng phải là một quốc vương tốt hơn hắn hay sao? Không có ông hắn sẽ chỉ là một kẻ pêu lưu lệ thuộc vào kẻ thù của hắn. Ông là chiến lược của hắn, trí tuệ của hắn, là người bảo vệ tàng hình của hắn. Tại sao ông không chiếm lấy chỗ của hắn? Ông có thể làm điều đó. Các hoạn quan chẳng đã từng được phong vương ở Bizantium là gì?
Đại hoạn quan vẫn tủm tỉm cười.
- Firousi, tôi rất cảm ơn bà đã đánh giá tôi rất cao. Nhưng tôi sẽ không giết Mulai Ismail, ông ấy sẽ vững vàng trên ngai vàng Maroc. Ông ấy chỉ có cái điên rồ mà tất cả các bậc bá vương cần có. Ai có thể thống trị được nếu không có khả năng sinh sản mạnh mẽ. Máu của Mulai Ismail giống như phún thạch. Máu của tôi giống như nước trong dòng suối có bóng cây che. Đó là ý của Thánh Allah. Tôi đã truyền cho ông ấy trí tuệ và mưu lược của tôi. Tôi đã huấn luyện và dạy dỗ ông ấy từ khi ông ấy chỉ là một hoàng tử bé nhỏ trong số một trăm con trai của Mulai Archi, người chẳng hề quan tâm chút nào đến việc giáo dục con cái, Mulai Archi chỉ quan tâm đến Mulai Hamet và Abd El Almed. Nhưng tôi lại quan tâm đến Mulai Ismail, và bà biết đấy, ông ta đã thắng hai người kia. Tôi coi Mulai Ismail thực sự là đứa con dứt ruột đẻ ra, trong khi Mulai Archi chẳng coi ông ấy là gì. Thế thì làm sao tôi lại có thể hại Mulai Ismail được? Ông ấy không phải là một kẻ bạo dâm điên khùng như bà nghĩ theo quan niệm hẹp hòi của người Cơ đốc giáo. Ông ấy là thanh kiếm của Thánh. Bà chưa hề nghe chuyện Thánh đã trút mưa lửa và lưu huỳnh lên các thành phố tội lỗi Sodom và Gomorrah hay sao? Mulai Ismail đã diệt trừ các thói hư tật xấu của nhiều người Tunisie và Algiers. Ông không bao giờ lấy một người đàn bà chồng đang còn sống, vì ngoại tình bị luật pháp nghiêm cấm và đã kéo dài lễ nhịn ăn Ramanda suốt một tháng. Khi bà trở thành vợ thứ ba của ông, bà sẽ làm dịu đi những cơn quá khích trong cái tính khí bốc đồng của ông. Đến lúc đó thì công việc của tôi coi như là hoàn tất. Bà có muốn tôi để bà ra mắt Mulai Ismail không?
- Không - Angélique kiên quyết nói - Hãy khoan đã - Để cho định mệnh xoay vần vậy.
Lưỡi kiếm của định mệnh đã giáng xuống vào một buổi sáng mát mẻ khi Angélique cho khiêng nàng trên chiếc kiệu có phủ rèm vào vườn cọ. Nàng đã nhận được một mảnh giấy của Savary, mà Fatima đã miễn cưỡng trao lại, trong đó lão bảo nàng đến ngay vườn cọ gần chiếc lều dành cho các thợ làm vườn. Vợ của một người trong bọn họ, một nô tì người Pháp tên là Badiguet sẽ chỉ cho nàng biết nơi gặp lão. Dưới vòm lá trong suốt ánh lên những chùm chà là chín mọng mà các nô lệ đang trẩy. Bà Badiguet từ trong lều tiến ra lấm lét nhìn quanh rồi nói khẽ là Savary đang làm việc cách đây không xa, nhặt chà là rơi để làm một thứ bánh chua cho nô lệ. Lối mòn thứ ba bên trái… Liệu nàng có trông cậy được các hoạn quan khiêng kiệu không? Rất may họ là hai cảnh vệ trẻ tuổi chỉ biết ngoan ngoãn tuân theo chỉ thị của Osman Faraji là không được làm trái ý Angélique. Thế là nàng ra lệnh khiêng kiệu đến chỗ hẹn, và nhìn thấy Savary giống như chú quỷ lùn đang nhặt chà là. Chỗ này vắng vẻ chỉ nghe tiếng ruồi nhặng vo ve quanh đống chà là chín nẫu. Khi Savary đến gần chỗ nàng, hai hoạn quan định ngăn lại:
- Mấy chú nhóc béo ị kia, tránh lối cho ta đi - lão già bảo họ, giọng hóm hỉnh - Hãy để ta kính chào bà mệnh phụ.
- Ông cụ là bố tôi - Angélique nói - Các chú thừa biết là Osman Bey cho phép tôi thỉnh thoảng gặp cụ một lần.
Họ không phản đối.
- Mọi việc đều suôn sẻ cả - Savary thì thầm, đôi mắt hấp háy sau cặp kính.
- Cụ đã tìm được mỏ maumie mới chưa? - Angélique cười ranh mãnh hỏi.
Nàng trìu mến nhìn Savary. Càng ngày lão nom càng giống các tiểu yêu ma quái đến nhảy múa quanh các bàn đá trên các cánh đồng Poatu. Nàng thích thú tưởng tượng lão là một trong các yêu tinh râu ria bờm xờm mà nàng nằm đợi trên thảm cỏ đầy sương và sau đó ngoan ngoãn theo nàng.
- Có sáu nô lệ chuẩn bị trốn. Kế hoạch của họ thật hoàn mỹ. Họ không có ý dùng người dẫn đường, vì chúng hay phản bội những người Cơ đốc giáo mà chúng giả vờ sốt sắng giúp đỡ. Họ có kế hoạch đi đến Ceuta, họ đã vạch trước những con đường sẽ theo và những con đường cần tránh. Một vài tháng nữa sẽ lên đường. Lúc đó là tiết thu phân, và người Maroc từ thôn quê trở về, vì họ không phải lo việc đồng áng nữa. Chúng ta sẽ chỉ đi vào ban đêm. Tôi đã cố thuyết phục họ nhận một người đàn bà, tuy họ không muốn. Họ chưa hề thấy một người đàn bà nào trốn thoát cả. Tôi bảo họ là có bà họ sẽ an toàn hơn vì người ta sẽ cho đây là một đoàn thương nhân chứ không phải là một đoàn nô lệ. Angélique mừng quá, cứ vặn vẹo hai bàn tay mãi.
- Ôi, Savary thân mến của tôi. Thế mà tôi cứ trách cụ là cụ đã bỏ mặc tôi cho số phận.
- Tôi đã có kế hoạch - lão dược sư nói - nhưng chưa thật hoàn chỉnh. Tôi còn phải đưa bà ra khỏi pháo lũy.
Tôi đã nghiên cứu tất cả các lối ra từ hậu cung đến cung điện. Có một cái cửa nhỏ không phải lúc nào cũng có người canh gác, ở phía Bắc, trong bức thành đối diện với một đống phân cách nghĩa địa Do thái không xa. Bọn nữ tì cho tôi biết nó dẫn vào một cái sân gọi là “sân bí mật” cách cầu thang hậu cung mấy bước thôi. Đó là con đường bà sẽ phải theo. Một người trong nhóm sẽ chờ bà ở bên ngoài. Hơn nữa, bà phải nhớ rằng cái cửa này chỉ có thể mở từ phía ngoài mà thôi, và chỉ có hai người có chìa khóa: Đại hoạn quan và Leila Aisheh. Hai người này có thể dùng nó để kịp trở về ngay sau khi tan hội. Bà sẽ phải lấy trộm chìa khóa và tuồn nó ra ngoài để một người trong bọn chúng tôi có thể đến mở cửa cho bà…
- Savary - Angélique thở dài - cụ quen dời núi lấp biển rồi nên cái gì đối với cụ cũng đơn giản. Tôi làm sao có thể lấy trộm chìa khóa của Đại hoạn quan, làm sao có thể qua mắt con báo…
- Vâng… thế này bà ạ, à mà thôi…
Savary đưa ngón tay lên môi và chuồn thật nhanh với cái làn chà là ở cánh tay.Angélique nghe tiếng ngựa phi. Mulai Ismail hiện ra ở lối mòn, chiếc burnous bay sau lưng, theo sau là hai tù trưởng. Hắn dừng lại khi nhìn thấy chiếc kiệu dưới gốc cây. Savary đánh đổ làn chà là giữa lối đi và cất tiếng than vãn khiến Quốc vương chú ý đến lão. Hắn bèn cho ngựa đi nước kiệu. Vẻ lúng túng và vờ khiếp sợ của lão già nô lệ khiến Quốc vương chợt nảy ra ý muốn dày vò một người nào đó.
- Kia, có phải là lão đạo sĩ nhỏ bé của Osman Faraji không? Ta nghe rất nhiều chuyện ly kì về nhà ngươi, lão phù thủy ạ. Lão đã chăm sóc rất chu đáo chú voi và con hươu cao cổ của ta.
- Tôi rất đa tạ lòng tốt của Ngài, thưa Thánh thượng - Savary vừa nói giọng run run, vừa phủ phục xuống trước Quốc vương.
- Đứng lên - Quốc vương nói - một đạo sĩ, một sứ giả linh thiêng có nhiệm vụ truyền đạt lời của Chúa cho chúng sinh mà lại phải hạ mình như thế quả là không thỏa đáng chút nào.
Savary đứng dậy và nhấc chiếc làn lên.
- Khoan! Ta không muốn người ta gọi ngươi là “đạo sĩ” khi người ta vẫn khăng khăng giữ mãi tín ngưỡng của ngươi. Nếu ngươi có ma thuật huyền bí, thì đúng là ngươi đã học được của quỷ Satan. Hãy trở thành một người Maroc và ta sẽ cho ngươi nhập vào đoàn tùy tùng của ta để đoán mộng cho ta.
- Tâu Thánh thượng, tôi sẽ suy nghĩ về việc đó - Savary nói.
Mulai Ismail đang lúc khó tính. Hắn vung giáo lên và đưa về phía sau, chuẩn bị phóng.
- Hãy trở thành một người Maroc - hắn nhắc lại giọng dọa dẫm - một người Maroc, một người Maroc!
Savary vờ không nghe thấy gì, Mulai Ismail đâm lão lần thứ nhất. Lão lảo đảo, đưa tay bịt lấy bên hông, chỗ máu đang phọt ra. Lão lấy tay kia sửa lại cặp kính và nhìn Quốc vương với ánh mắt giận dữ.
- Tôi mà thành người Maroc à? Một người như tôi? Tâu Thánh thượng, Ngài cho tôi là loại người gì?
- Người phỉ báng tôn giáo của Allah! - Mulai Ismail gầm lên, đâm mũi giáo vào bụng ông lão.
Savary rút nó ra và đâm đầu chạy, nhưng chỉ loạng choạng được mấy bước, Mulai Ismail thúc ngựa đuổi theo hét to: Maroc! Maroc! và cứ mỗi tiếng lại đâm giáo vào người lão. Ông lão lại ngã xuống đất. Angélique nãy giờ vẫn theo dõi cảnh tượng hãi hùng ấy từ trong kiệu. Nàng cấu mạnh vào khớp ngón tay để khỏi bật kêu thét lên. Không, nàng không thể để hắn đâm chết ông bạn già của nàng. Nàng vội nhảy ra khỏi kiệu, quỳ xuống bên yên ngựa của Mulai Ismail.
- Xin bệ hạ hãy dừng tay, dừng tay - nàng nói bằng tiếng Arập - xin hãy rủ lòng thương! Đó là cha tôi.
Cánh tay đang vung giáo lên, chuẩn bị phóng tiếp bỗng dừng lại. Sự xuất hiện của người đàn bà kiều diễm này mà từ trước đến nay hắn chưa nhìn thấy khiến hắn vô cùng kinh ngạc. Tóc nàng xổ tung ra và phủ quanh người như những tia nắng mặt trời. Hắn cúi xuống hôn cánh tay nàng. Angélique chạy đến bên Savary nâng lão dậy, rồi kéo lão đến dưới bóng cây, đặt lão tựa vào thân cây. Lão gầy và nhẹ quá nên nàng làm công việc đó chẳng khó khăn gì. Quần áo của lão bết máu, kính lão bị vỡ. Nàng nhẹ nhàng gỡ kính ra. Máu vẫn loang trên chiếc áo tơi tả của lão, và nàng kinh hãi nhìn thấy mặt lão tái mét dưới chòm râu nhuộm lá mòng.
- Ôi, Savary! - nàng rên rỉ - ôi, Savary tội nghiệp, đừng chết, xin đừng chết.
Bà Badiguet chạy về phía lều tìm thuốc, Savary sờ soạng trong kẽ áo cố tìm cái mẩu nhỏ màu đen. Lão liếc mắt nhìn và nhận ra Angélique.
- Chất maumie! - Lão lắp bắp - Thôi thế là từ nay không còn ai biết về bí mật vĩ đại nhất thế gian này nữa. Chẳng một ai ngoài lão biết được điều đó…Giờ thì lão chết…chết.
Mí mắt lão ngả sang màu tro. Bà vợ người làm vườn chạy đến với một ít cháo loãng nấu với hạt thánh liễu có pha quế và hồ tiêu, Angélique nâng bát cháo kề môi lão. Một nụ cười rạng rỡ chợt lóe trên gương mặt lão.
- A, hương liệu! - Lão thì thầm - hương vị của những chuyến đi biển kỳ thú…Jesus, Mary, xin hãy nhận linh hồn con… Nói dứt lời, lão hắt hơi thở cuối cùng.
Angélique vẫn cầm tay lão cho đến khi nó lạnh buốt.
- Không thể được - nàng nhắc đi nhắc lại - không thể được…
Lão Savary nhanh nhẹn, bất khuất không còn nữa. Trước mắt nàng chỉ còn một con búp bê vỡ nát, thảm hại. Một cơn ác mộng trong ánh sáng màu xanh lục của vườn cọ. Đây chỉ là một trò nghịch ngợm nữa của lão. Chỉ một lát sau lão sẽ đứng dậy và bẽn lẽn thủ thỉ bên tai nàng: “Thưa bà, mọi việc đều suôn sẻ”. Cuối cùng nàng cũng phải nhìn thẳng vào thực tế là lão đã chết. Nàng cảm thấy một khối nặng đè lên người nàng, khiến nàng chới với. Rồi nàng thấy trên mặt cát dấu chân ngựa. Nàng ngẩng lên, cái bóng đen của Mulai Ismail trùm lên