Chương 159: Chương 07

Angélique mãi mới nhận ra Savary. Lão đã nhuộm râu màu hung hung, khiến lão nom giống một đạo sĩ người Marốc. Dáng vẻ này càng được tôn lên nhờ cái áo dài bằng lông lạc đà màu nâu nom rộng thùng thình. Tuy vẫn gầy, lão nom khỏe mạnh và da dẻ hồng hào. Cuối cùng Angélique cũng nhận ra lão, nhờ cặp kính to và đôi mắt vẫn nhảy múa sau cặp mắt kính.

- Mọi chuyện đều tốt đẹp cả - lão khẽ nói, vừa bắt chéo chân ngồi cạnh nàng - Tôi chẳng tưởng tượng được là mọi việc lại trôi chảy đến thế. Allah - Tôi muốn nói là Thượng đế - đã cầm tay chúng ta.

- Cụ đã tìm được người trợ lực và cách thức chạy trốn chưa?

- Trốn à? Vâng, có, có. Lúc nào cần khắc có, bà đừng lo. Trong khi chờ đợi, bà xem đây.

Từ trong nếp áo choàng lão lôi ra một chiếc túi vải và miệng toác đến mang tai, lão từ từ lấy ra những miếng màu đen.

Đôi mắt của Angélique vẫn trĩu nặng vì cơn sốt. Nàng uể oải nói rằng nàng chẳng nhìn thấy gì cả.

- Thôi được, nếu không nhìn thấy thì ngửi vậy - Savary vừa nói vừa giơ cái chất bí mật đó ra trước mũi Angélique.

Mùi của nó khiến Angélique giật nảy mình, và bất giác mỉm cười.

- Ô, Savary! Chất maumie!

- Đúng rồi>Savary vui vẻ nói - Chất khoáng maumie giống hệt chất lỏng chảy từ các hốc đá ở Ba tư, chỉ có khác là bây giờ nó ở thể rắn.

- Nhưng… làm sao cụ có được?

- Tôi sẽ kể cho bà nghe đầu đuôi câu chuyện - lão dược sư nói. Vừa lấm lét nhìn quanh phòng lão vừa kể bằng tiếng Arập cho nàng nghe về sự khám phá của lão. Việc này đã xảy ra trong cuộc hành trình dài lê thê vừa rồi, khi họ đi qua vùng các vũng muối dọc biên giới giữa Algiers và Marốc.

- Bà có còn nhớ những dải nước phản chiếu ánh nắng mặt trời không? Dường như chẳng có chút giá trị gì ở đấy, ấy thế mà bà thử đoán xem việc gì đã xảy ra nào?

- Một phép màu, chắc là thế - Angélique nói, cảm động trước cái tính cả tin của lão.

- Đúng rồi - Savary phấn chấn nói - Nếu tôi là một kẻ cuồng tín, tôi sẽ gọi đó là “phép màu của lạc đà”. Bà nghe đây…

Lão nói là trong đoàn caravan lão nhận thấy một con lạc đà nom giống một tảng đá phủ rêu, lông hầu như trụi hết vì ghẻ lở. Một buổi tối khi caravan dừng lại, con lạc đà này bỗng dưng khụt khịt trong đống cát. Nó bỏ đi và thỉnh thoảng lại dừng lại để hít hít trong cồn cát. Bấy giờ Savary không ngủ, lão đứng dậy đi theo con vật để đưa nó về, hi vọng người chủ sẽ thưởng cho lão thêm một suất ăn. Mà cũng có khi lão đã được ngón tay của Allah, à của Thượng đế hướng dẫn. Bọn lính gác vẫn thường nhầm lão là người Arập hay Do Thái, chẳng chú ý mấy đến lão, vả lại mọi người đều ngủ, chẳng còn sợ bọn cướp tấn công hoặc nô lệ Cơ đốc giáo trốn chạy ở một vùng như thế, nơi mà đã hàng bao nhiêu ngày liền chẳng kiếm nổi thức gì ăn được hoặc một giọt nước uống.

- Một con lạc đà lúc nào cũng ngại đi trên đá sỏi, thế mà lại dùng hai chân đào hố, tôi lạ quá. Tôi thấy là bà cũng không tin tôi - Savary nói, đưa mắt hồ nghi nhìn Angélique.

- Nhưng nếu…

- Chắc bà cho là lúc ấy tôi đang nằm mơ?

- Đâu có.

- Vậy là từ trong thứ đất khô mầu nâu ấy, con vật kia đang đào cái mà ngay vừa rồi bà đã nhận ra. Rồi nó dùng răng lôi các mảnh ấy ra và trải ven miệng hố như trải đệm, rồi lăn mình trên lớp đệm ấy!

- Và thế là chỗ ghẻ lở của nó được chữa khỏi một cách kỳ diệu…?

- Chữa khỏi, đúng thế. Nhưng bà phải biết là chẳng có gì là thần diệu trong đó cả - Savary uốn nắn lại - Bà cũng như tôi đều thấy rõ cái tác dụng chữa trị tuyệt vời của nó đối với các bệnh ngoài da. Có điều là khi tôi nhặt một số hòn ấy tôi chẳng hề nhìn thấy sự giống nhau giữa chúng và cái chất lỏng Ba tư thần kỳ kia. Bấy giờ tôi có ý định dùng nó để làm dịu bớt cơn đau của tôi thôi. Nhưng đây là điều tôi đã nhận thấy, và do đó là một phát minh khoa học xuất sắc.

- Một phát minh nữa ư? Lần này có thế không?

- Ủa, chất muối đó là một chỉ dẫn về sự có mặt của chất khoáng maumie. Nó y hệt như ở Ba Tư. Vì thế tôi không phải đi Ba Tư nữa. Có lẽần quay trở lại nam Algiers tôi có thể tìm ra những mỏ khổng lồ của cái chất vô giá kia. Ít ra cũng có thuận lợi là nó không phải là tài sản riêng được canh phòng cẩn mật của Quốc vương Ba tư. Tôi sẽ dễ dàng đến đó.

Angélique thở dài.

- Có thể là các mỏ đó không được canh gác như ở Ba Tư. Nhưng, cụ Savary thân yêu, cụ đang ở ngay giữa lòng Marốc. Điều đó chẳng can hệ đến các kế hoạch của cụ tí nào sao?

Nói xong nàng bỗng thấy hổ thẹn vì đã ngờ vực người bạn duy nhất của mình. Nàng bèn nồng nhiệt chúc mừng Savary khiến lão rất thích thú. Một lát sau lão bảo mang đến cho họ một bếp than và một chiếc đĩa bằng đồng hoặc đất nung.

- Để làm gì thế?

- Ủa, để chưng cất một ít cho bà. Đã một lần tôi thử chưng cất nó trong một hầm tàu kín và nó đã nổ to như đại bác.

Angélique khuyên lão đừng lặp lại thí nghiệm ấy giữa hậu cung này. Cơn đau đầu của nàng biến dần do tác dụng của món cháo loãng mà Đại hoạn quan cho nàng húp, và toàn thân nàng đang ra mồ hôi như tắm.

- Cơn sốt đang hạ dần - Savary nói, ngước mắt nhìn nàng qua cặp kính.

Đầu óc Angélique tỉnh táo dần.

- Theo cụ liệu chất maumie của cụ có lại giúp chúng ta trốn thoát không?

- Tại sao đầu óc bà lúc nào cũng nghĩ đến chuyện trốn chạy thế? - Savary hỏi, vừa cẩn thận cho mấy miếng cát tẩm dầu vào h

- Tôi đã nghĩ kỹ hơn bao giờ hết - Angélique dõng dạc nói, bật ngồi dậy với vẻ phẫn nộ.

Nhưng nàng không đủ sức, đành lại ngả xuống đệm, lòng hoang mang chán nản, không biết người bạn duy nhất của mình có định bỏ rơi mình không. Đối với nàng ngoài việc chạy trốn không còn con đường nào khác.

- Tôi cũng cảm thấy như bà - Savary nói - Tôi cũng không giấu gì bà là tôi không thể chờ mãi được. Tôi phải trở về Paris để tập trung tâm trí vào cái công trình nghiên cứu mà phát minh này của tôi đã mở đường. Chỉ ở đó mới có đủ thiết bị để chưng cất và thử nghiệm hợp chất dễ bốc cháy này, cái hợp chất mà tận trong xương tủy mình tôi cảm thấy sẽ thúc đẩy nền văn minh tiến lên.

Lão lại lôi ra một mẩu nhỏ của chất đó và xem xét kỹ lưỡng bằng một chiếc kính lúp khung đồi mồi. Savary có một đặc điểm dù đang mặc quần áo gì đi nữa, lão cũng có thể thò tay móc ra mọi thứ cần thiết ngay trước mắt, y hệt như một nhà ảo thuật lành nghề, Angélique hỏi lão làm sao lão kiếm ra chiếc kính lúp kia.

- Của con rể tôi tặng.

- Trước nay tôi chưa hề thấy.

- Tôi chỉ có cách đây mấy giờ thôi. Khi anh con rể quý của tôi thấy tôi thích nó quá, anh ấy liền biếu tôi, để chúc mừng ngày hội ngộ.

- Thế con rể cụ là ai? - Angélique hỏi.

Savary gấp chiếc kính lúp vào trong gọng đồi mồi và cất trong lần áo.

- Một người Do thái ở Meknès đây - lão nói - một tay buôn bán kim loại quý, như cha anh ta trước kia. Tôi chưa có dịp kể cho bà nghe về chuyện này, nhưng tôi đã tận dụng thời gian từ ngày ta đến Meknès. Thành phố xinh đẹp này đã thay đổi nhiều so với thời Mulai Archi. Mulai Ismail cho xây dựng ơ>khắp nơi. Ở đây cũng nhiều giàn giáo bằng ở Versailles.

- Cụ kể tiếp về con rể cụ đi.

- Thì tôi đang kể đây. Tôi đã từng kể cho bà là tôi có kết bạn với hai người tại Marốc, khi tôi còn là nô lệ ở đây.

- Và hai con trai.

- Đúng rồi, chỉ có điều là tôi không nhớ chính xác, hình như tôi được cái diễm phúc có một cô con gái với Rebecca Cayan, chứ không phải là con trai. Chính là cái đứa con gái tôi tìm thấy hôm nay, nó trưởng thành rồi và kết hôn cùng Samuel Maimoran, cái cậu vừa biếu tôi chiếc kính lúp ấy.

- Chúc mừng ngày hội ngộ! Ôi, Savary - Angélique không thể nhịn cười được - Cái tính cách Pháp không lẫn vào đâu được của cụ khiến tôi rất thích nghe cụ nói chuyện. Nghe cụ nói “Paris” hay “Versailles” tôi có cảm tưởng như mình được bốc khỏi cái nơi sặc mùi gỗ tuyết tùng và đàn hương và trở lại thành Nữ hầu tước de Plessis-Bellière.

- Vậy bà thực sự muốn trở lại địa vị Nữ hầu tước một lần nữa? Bà thực sự muốn chạy trốn?

- Tôi đã chẳng nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần rồi hay sao? - Angélique hơi bực mình thốt lên - Tôi có cần phải nói một trăm lần để cụ tin tôi không?

- Bà cần phải biết bà đang tự đặt mình vào hoàn cảnh như thế nào. Bà có thể chết năm mươi lần trước khi ra khỏi hậu cung này, hai mươi lần trước khi bước qua ngưỡng cửa Hoàng cung Quốc vương Mulai Ismail, mười lần trước khi ra khỏi Meknès, mười lăm lần trước khi đến được Ceuta hay Agadir, và ba lần trước khi bà lọt được vào một trong những dinh lũy của Cơ đốc giáo.

- Thế cụ chỉ cho tôi có hai phần trăm thành công thôi ư?

- Đúng như thế.

- Tôi vẫn sẽ thành công thôi, cụ Savary ạ!

Lão dược sư lắc đầu lo ngại.

- Đôi lúc tôi tự hỏi không biết bà có quá ngoan cố không. Chống lại số phận đến mức đó quả là không lành mạnh.

- Cụ nói cứ như là Osman Faraji ấy - Angélique nói.

- Đôi khi tôi nghĩ rằng nếu hậu cung này thích hợp với bà…nếu nhân cách của Mulai Ismail vĩ đại không làm bà phật ý lắm... thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn... Ồ, bà đừng phiền lòng - Lão im bặt khi nhìn thấy Angélique nước mắt giàn giụa - Cứ coi như là tôi chẳng nói gì cả. Bà cứ yên tâm…

Lão vỗ vỗ vào hai bàn tay nàng. Có các vàng lão cũng sẽ không bao giờ làm cho bà đại mệnh phụ này phải rơi nước mắt, vì chẳng phải bà đã tỏ ra rất thân mật với lão như là hai người cùng đẳng cấp xã hội, chẳng phải bà đã luôn luôn lịch sự lắng nghe lão nói, ban cho lão nhiều đặc ân đó sao?...

Lão thắc mắc không hiểu tại sao một người không có gì mà không làm được lại không trở thành người tình của Louis XIV? Đã đành là có câu chuyện huyền thoại về người chồng của bà mà Mezzo-Morte đã lợi dụng để lập bẫy, lão đã tỏ ra sáng suốt hơn nàng t

- Chúng ta sẽ trốn thoát - Lão nói đầy độ lượng - Chúng ta sẽ trốn thoát. Nhất trí.

Lão ra sức chứng minh cho Angélique thấy rằng ở đây thậm chí còn có nhiều cơ hội trốn thoát hơn ở Algiers. Trên thực tế nhiều người ở đây đã thành công. Vì toàn bộ nô lệ ở đây đều thuộc về Quốc vương nên họ có thể tổ chức thành phường hội. Họ đã bầu một người Norman quê ở Saint-Valery-en-Caux tên là Colin Paturel làm thủ lĩnh. Người này đã bị làm nô lệ mười hai năm nay, và rất có uy tín đối với đám bạn bè cùng khổ của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử, những người Cơ đốc giáo thuộc các giáo phái khác nhau đã thôi không đánh nhau nữa, vì Colin Paturel đã lập nên một kiểu nghị viện trong đó một người Nga và một người đảo Crète đại diện cho dòng Chính thống, một người Anh và một người Hà Lan đại diện cho Tin lành, một người Tây Ban Nha và một người Ý đại diện cho những người Công giáo. Còn Colin Paturel, là người Pháp, thì lo giàn xếp những mối bất hòa và giải quyết mọi sự tranh chấp một cách công bằng.

Colin Paturel đã dũng cảm tìm cách gặp Mulai Ismail, kẻ mà ít người dám tiếp cận vì sợ mất mạng. Không hiểu anh ta thuyết phục thế nào mà tên bạo chúa phải nghe anh. Kết quả là tình trạng khốn khổ của các nô lệ được cải thiện rất nhiều. Một quỹ chung do các nô lệ đóng góp dùng để trả công cho những ai giúp đỡ họ. Piccinino, nguyên là một viên chức nhà băng, được cử làm thủ quỹ. Một số người Marốc hám tiền đã đồng ý dẫn đường cho những người chạy trốn. Ông vua của các nô lệ, Colin Paturel, đã bị quy trách nhiệm về vụ này và bị kết án đóng đinh vào tay trên cổng thành cho đến chết. Mầm mống bạo loạn bắt đầu xuất hiện trong đám nô lệ sau vụ hành hình này, vì từ nay họ đã mất người thủ lĩnh. Bọn gác da đen đang dùng dùi cui và giáo mác để dồ nô lệ trở vào nhà lao, bỗng Colin Paturel đột nhiên hiện ra trước mặt họ và yêu cầu họ bình tĩnh lại.

Sau mười hai tiếng đồng hồ bị nhục hình, hai bàn tay của anh ta nát tươm, và anh ta đã rơi xuống đất. Anh ta không bỏ trốn, mà đã quay trở lại thành phố xin được bệ kiến Quốc vương.

Mulai Ismail cũng tin là anh ta được Thánh Allah che chở. Ông bắt đầu sợ và kính nể người anh hùng Norman này và thấy thích trò chuyện với anh ta.

- Tất cả những cái đó chứng minh rằng làm một nô lệ ở Marốc tốt hơn nhiều so với cái nơi hang cùng ngõ hẻm Algiers. Ở đấy, cuộc sống rất dữ dội.

- Và cả cái chết nữa,

- Hai cái đều là một thôi, sức mạnh chủ yếu của một nô lệ, thưa bà, là sức chiến đấu của họ. Và sau khi một người đã vượt qua bao nhiêu khổ ải để rồi đêm đêm có thể thấy là mình vẫn còn sống sót, người đó sẽ có một sức khỏe phi thường. Quốc vương Marốc đã tập hợp được một đạo quân nô lệ để xây dựng cung điện, nhưng chẳng bao lâu nữa đạo quân đó sẽ là một cái gai nhức nhối trong người ông ta. Có tin đồn là Colin Paturel vừa mới yêu cầu Quốc vương phải gọi các Cha Trinity[3] trở lại để chuộc những người bị cầm tù như ở các nước Berber khác. Tôi vừa chợt nghĩ ra một điều, lúc nào có đoàn đến Meknès, bà có thể nhờ một trong các Cha chuyển thư cho Đức Vua Pháp báo cho Ngài biết về tình cảnh khốn khổ của bà.

Angélique đỏ mặt. Nàng cảm thấy cơn sốt đang trở lại. Hai bên thái dương cứ giật giật.

- Cụ nghĩ rằng chỉ để cứu tôi mà vua

Pháp sẽ chiêu mộ binh mã sao?

- Rất có khả năng Mulai Ismail sẽ không phớt lờ các yêu cầu của Hoàng Thượng. Ông ta tỏ ra rất ngưỡng mộ vua Pháp. Ông ta muốn bắt chước Ngài về mọi phương diện, nhất là về mặt kiến thức.

- Tôi không chắc Hoàng Thượng sẽ sốt sắng cứu tôi khỏi cảnh ngộ này.

- Biết đâu đấy?

Angélique biết rằng ông lão nói bằng tiếng nói của trí tuệ, nhưng nàng thà chết một ngàn lần chứ không chịu cái nhục bị Đức vua từ chối giúp đỡ. Đầu óc nàng quay cuồng. Giọng nói của Savary tuồng như cứ trôi xa dần, khi nàng thiếp đi vào lúc một ngày mới bắt đầu trên thành phố Meknès.