Trần Tiêu lấy ra chục ngọc giản chứa pháp quyết tu luyện thần thông của Bách dược Dưỡng linh công rồi phân loại những pháp môn đó. Số lượng pháp môn này rất nhiều nên cậu phải làm vậy để tiện cho việc theo dõi và nghiên cứu.
Tuy vậy số lượng mỗi loại cũng khá lớn, làm phần lớn sự tập trung của cậu để vào những pháp môn này. Có những loại dùng ngoại vật để dẫn khí, dùng nó để chiến đấu như Thanh Mộc Kiếm quyết hay Hóa Dược Đỉnh quyết. Lại có những loại dùng khí để gia thân, cường hóa bộ phận thân thể như Song Linh Chưởng, Đại Địa Thoái. Cuối cùng là những pháp quyết thuộc dạng đa dụng như Tạo Vân quyết, Bồi Thảo pháp.
Làm Trần Tiêu thấy không ngờ nhất là đa số những pháp môn tu luyện của các đệ tử của lão tổ khai phái thường đều thuộc phái đa dụng là chủ yếu. Theo suy nghĩ của Trần Tiêu thì những đệ tử của tổ sư khai phái sẽ hiểu rõ nhất công pháp Bách dược Dưỡng linh công. Dù sao những vị đệ tử đó mới chính là những người duy nhất được nghe chân truyền từ người sáng tạo Bách dược Dưỡng linh công.
Cho nên cậu cho rằng những pháp quyết mang tính đa dụng sẽ giúp cậu hoàn thiện Thiên dược Dưỡng linh công của mình. Lúc đầu Trần Tiêu còn hơi nghi ngờ nhưng khi bắt đầu luyện tập những pháp môn của những đệ tử lão tổ thì đã phần nào hiểu được lý do.
Mặc dù những pháp môn này không mang tính chiến đấu cao nhưng ngược lại giúp cho người tu luyện tăng cảm giác vận hành linh khí trong người cũng như việc phóng xuất linh khí hiệu quả.
Không những thế, việc tu luyện những pháp môn này không phải phá làng phá xóm mà chỉ cần chọn nơi dược điền luyện tập là được, việc này còn có thể gia tăng tốc độ trồng linh thảo, rất đúng tôn chỉ của Dược Linh tông.
Tạo Vân quyết là pháp môn vận hành linh khí để tạo mây, tùy vào thuộc tính mình thêm vào mây sẽ tạo ra khác nhau. Bởi vì mây rất bất định nên việc vận dụng Tạo Vân quyết giúp người tu luyện có thể hiểu rõ cách phóng xuất mỗi thuộc tính linh khí cũng như việc tập trung linh khí tạo thành mây cố định ở một chỗ rất có ích lợi cho chiến đấu.
Bồi Thảo pháp thì rèn luyện thủ pháp, vận dụng linh khí qua thủ pháp để truyền vào dược thảo loại bỏ những tai hại ngầm trong linh thảo. Pháp quyết này còn giúp tăng khả năng thao túng linh khí để không làm hư dược thảo.
Ngũ Hành Pháp Chỉ vốn cần rất nhiều sự tinh tế trong việc khống chế linh khí để phát huy hiệu quả sức mạnh cũng như cách điều khiển ngũ hành thuộc tính nên học hai pháp môn Tạo Vân và Bồi Thảo này rất thích hợp cho việc tu luyện Ngũ Hành Pháp Chỉ.
Trần Tiêu dùng thủ pháp, từng đợt linh khí thô to trong thể nội vận chuyển có trật tự rồi lại sử dụng chỉ pháp biến chúng thành những tia linh khí tinh thuần.
Cậu thay đổi thủ pháp và chỉ pháp nhanh hơn, có thứ tự và nhuần nhuyễn sau đó lại dùng cách phóng xuất của Ngũ Hành Pháp Chỉ mà áp dụng Bồi Thảo pháp vào Hồng Huyết quả đang trồng trong dược điền.
Trần Tiêu cảm nhận thấy từng tia hỏa thuộc tính bắt đầu len lỏi vào Hồng Huyết quả, theo từng mạch trong linh thảo mà đi khắp từ rễ đến ngọn sau đó tất cả tia linh khí đó ồ ạt tiến về phía nụ hoa.
Hoa của cây nhanh chóng nở, lộ ra phía trong là Hồng Huyết quả nho nhỏ màu đỏ nhạt. Trần Tiêu từng đọc qua vấn đề này trong Bách Thảo kinh, ghi chép là Hồng Huyết quả vốn không cần quá nhiều hỏa thuộc tính để có thể trưởng thành nhưng khả năng hấp thụ hỏa năng của tự thân cây quá thấp, bị thất thoát nhiều nên mới cần trồng ở nơi gần núi lửa hay đất có hỏa thuộc tính nồng đậm.
Việc Trần Tiêu dùng Bồi Thảo pháp đã khiến linh thảo này loại bỏ nhược điểm của nó, khiến nó nhanh chóng kết quả. Nhưng vẫn còn một khoảng thời gian để nó trưởng thành, dẫu sao điều này cũng đã khiến Trần Tiêu hài lòng.
Qua một hai tháng, Trần Tiêu đang tập luyện Ngũ Hành Pháp Chỉ đã vô cùng thành thục, cơ sở vững chắc đá có, chỉ hơi thiếu chút linh trong đó. Linh là xương sống của một bộ công pháp, nó giống như tinh hoa của người tu luyện đã hiểu rõ về công pháp ấy.
Thường là những người mở ra Hồn Hải bắt đầu Tụ Linh mới dễ dàng nắm giữ được, Linh của họ chính là con đường đã chọn trong quá trình tu đạo. Nếu Linh mang sức mạnh của hỏa thì học tập công pháp hỏa hệ vô cùng đơn giản, dễ dàng đạt được điểm mấu chốt. Linh ngoài mặt mang ý nghĩa dễ dàng học tập sức mạnh tương thích với nó cũng thể hiện cách sử dụng công pháp đó. Ví dụ như Linh mang thuộc tính hỏa thì dù học công pháp khác cũng sẽ hơi hướng tiến dần về phía hỏa thuộc tính.
Đó cũng là lí do mà Trần Tiêu vẫn chưa đột phá lên Thiên dưỡng kỳ. Cậu vẫn chưa biết con đường của mình là gì, và việc thể hiện ra Linh như thế nào.
Mở Hồn Hải trong Thiên dưỡng kỳ không chỉ đơn giản là đột phá cảnh giới mà còn nhắm đến việc kết nối giữa thân thể và tu vi.
Thông thường người tu luyện sẽ trải qua giai đoạn tôi cốt để thân thể tăng vọt về khả năng chứa đựng linh khí, sau đó là dịch cân thay đổi kết cấu của gân mạch để đạt được sự vận chuyển sức mạnh hoàn hảo. Rồi cuối cùng là tẩy tủy, đả thông một con đường nối liền từ thân thể tới đầu.
Tẩy tủy là giai đoạn quan trọng vì nó xung kích cánh cửa đầu tiên của tu hành. Vượt qua tẩy tủy thì thân thể sẽ nối liền với đại đạo, trở thành bảo bình hoàn mỹ.
Nhưng Trần Tiêu lại tu luyện ngũ hành hoàn mỹ nên cánh cửa đó muốn đả thông thì khó hơn bình thường rất nhiều.
Việc nắm giữ con đường của mình, hay còn gọi là đạo giống như có chìa khóa mở cánh cửa của đó vậy. Vì lẽ đó nên Ngã mới tạo thành phần quan trọng trong ba điều tiên quyết khi tu hành.
Có lời đồn từng có một người khi chưa tu hành đã nắm giữ Chân Đạo, là đỉnh cao của Ngã, khi người đó tu hành liền một bước thăng hoa mà đạt đến đỉnh cao.
Mà Trần Tiêu lại không hiểu rõ con đường tu hành của mình, thế nên cậu khó có thể mở ra Hồn Hải cũng như khó có thể thấu triệt hoàn toàn Ngũ Hành Pháp Chỉ.
Cậu đã thử xung kích mấy lần nhưng vẫn không có cách nào đả thông nên đã suy nghĩ đến việc dùng đan dược để đột phá. Việc sử dụng đan dược tuy mang đến hệ lụy xấu nhưng vẫn là khá dễ dàng so với tự mình đột phá.
Dù sao Trần Tiêu cũng là con người trầm ổn nên cũng không muốn tự mình đi vào nơi nguy hiểm để tìm cơ duyên đột phá. Thế nên cậu ra khỏi căn nhà gỗ của mình đi tới Dược Đạo các.