Đi suốt một ngày đường, đến xế chiều, người đã mệt mỏi, ngựa cũng có phần rã rời. Trương Chiêu sai người đi trước thám thính, một lúc sau có tin báo phía trước ba dặm có một trạm dịch, có thể nghỉ chân. Nhờ đó, cả đoàn bao gồm Phỉ Tiềm đều phấn chấn hẳn, tăng tốc để kịp đến nơi.
Trạm dịch thời cổ đại là nơi vừa có chức năng chuyển giao tin tức, tiếp đón quan viên, vừa bảo trì quan đạo, đóng vai trò như một trung tâm quản lý nhỏ cấp cơ sở. Thông thường, các trạm dịch đều có chỗ nghỉ ngơi, tiện cho quan lại hoặc người đưa tin tạm dừng chân và đổi ngựa. Ở trạm dịch thường có binh lính để giữ gìn an ninh, nên những tên trộm cướp cũng ít dám bén mảng đến đây quấy phá, so với hoang dã thì an toàn hơn nhiều.
Khi đoàn của Phỉ Tiềm tới trạm dịch, Trương Chiêu đi trước giao thiệp, chẳng bao lâu lại quay về, vẻ mặt không hài lòng, nói: "Nơi đây hóa ra là một tư dịch!"
Tư dịch là trạm dịch tư nhân, đã qua đăng ký với quan phủ, coi như một loại hình bổ sung cho trạm dịch công. Từ thời Tần đã rất chú trọng truyền tin quân sự, đến thời Hán, đã chuyển từ “bưu trạm” thành “đặt dịch,” tức là đổi từ bộ hành chuyển phát sang kỵ mã. Theo quy định, cứ ba mươi dặm đặt một trạm, phạm vi truyền tin mở rộng từ 25 dặm thời Xuân Thu Chiến Quốc lên thành 150 dặm. Về sau, để đáp ứng nhu cầu quản lý của quốc gia, các trạm dịch dần được cải tiến, bổ sung thêm chức năng tiếp đón quan viên và đặc sứ, thậm chí các trạm lớn gần Lạc Dương còn có nhiệm vụ đón tiếp sứ giả nước ngoài. Nhưng vì ngân quỹ quốc gia có hạn, lại thêm thiên tai xảy ra thường xuyên thời Đông Hán, để duy trì hoạt động của trạm dịch trên cả nước, một số trạm dịch vốn do nhà nước điều hành được phép cho các cá nhân giàu có và có danh vọng tại địa phương tham gia thành lập và quản lý. Trạm dịch mà Phỉ Tiềm gặp hôm nay chính là loại tư dịch như vậy.
Quan dịch thì những người như Trương Chiêu có thể ăn uống nghỉ ngơi miễn phí, nhưng tư dịch thì khác, vì tự chịu lỗ lãi, nên ngoài những đại quan có thể ghi vào công quỹ, người như Trương Chiêu, dù là có lý do công vụ, muốn ăn ở cũng phải tự bỏ tiền túi. Trương Chiêu xuất thân từ vùng nghèo Bing Châu, quen tính toán tằn tiện, thấy phải móc tiền túi thay vì ăn chực của công, dĩ nhiên cảm thấy không vui.
Phỉ Tiềm cười bảo: “Không sao, mặt trời cũng sắp lặn, nếu đến trạm dịch kế tiếp thì cũng không kịp, chi bằng nghỉ chân ở đây.” Rồi ông sai Phúc thúc trả tiền cho mọi người.
Tiền bạc Phỉ Tiềm tuy không nhiều, nhưng nhờ phúc của Thôi Hậu, vẫn có chút đỉnh. Hôm Thôi Hậu chia tay, vì Lã Bố, Trương Liêu và Cao Thuận đều chờ phía sau, Thôi Hậu chỉ kịp dặn đã chuẩn bị cho Phỉ Tiềm vài món đồ dùng trên đường. Lúc Phỉ Tiềm lên đường xem xét thì thấy, ngoài các vật dụng thường ngày, Thôi Hậu còn chuẩn bị vài thoi vàng lá và đậu bạc nhỏ. Thôi Hậu vốn là người kinh doanh, chu đáo cẩn trọng, nghĩ đến chuyện nếu dùng tiền đồng Ngũ Thù tuy tiện dụng nhưng cồng kềnh, còn mang vàng thỏi lớn dễ khiến kẻ khác dòm ngó, và nếu cần dùng đến thì các cửa hàng nhỏ khó mà đổi được. Đậu bạc và vàng lá nhỏ gọn là lựa chọn tốt nhất cho hành trình dài.
Có tiền tất nhiên mọi việc đều trôi chảy, chẳng bao lâu người ngựa đã được sắp xếp đâu vào đấy. Trạm dịch trưởng thấy tiền là do Phỉ Tiềm trả, nên đặc biệt ra đón tiếp ân cần. Thời Hán, chức trạm dịch trưởng cũng coi như một loại quan viên cơ sở, quản lý mười mấy nhân viên dưới trướng. Ví như Lưu Bang từng làm đình trưởng, khi ấy trạm dịch chưa phát triển, năm dặm có một bưu trạm, mười dặm một đình, còn bây giờ ba mươi dặm mới có một trạm dịch, tính ra thì chức dịch trưởng có phần lớn hơn chức của Lưu Bang thuở ấy.
Chưa kịp nói chuyện với dịch trưởng, thì bên phía Trương Chiêu, mấy binh sĩ đã ồn ào lên. Hóa ra, sau khi Phúc thúc trả tiền, các binh sĩ nghĩ ít ra cũng được một bữa no, nhưng lại chỉ thấy một chậu cơm kê và cơm mạch. Ăn hết rồi định xin thêm thì bị báo phải trả thêm tiền. Mấy binh sĩ không chịu, thấy Phúc thúc trả tới ba hạt đậu bạc, ở Lạc Dương có thể ăn được bữa tiệc nhỏ, mà nơi đây chẳng có thịt cũng không có rượu, ngay cơm kê với cơm mạch cũng không được ăn no, cho rằng trạm dịch muốn lừa đảo nên mới ồn ào lên.
Thấy vậy, dịch trưởng liên tục phân bua, còn cầm chậu cơm kê với cơm mạch gõ “đang đang,” nói rõ chậu lớn cỡ nào, kê và mạch đều đã được sàng sẩy kỹ, không còn vỏ, một thạch kê thô mới ra được sáu đấu kê tinh…
Phỉ Tiềm thấy chuyện buồn cười, không ngờ thời Tam Quốc cũng gặp “sự kiện chặt chém” như vậy. Tuy nhiên, lời dịch trưởng có phần đúng, người dân bình thường ăn kê với mạch đa phần chẳng dám sàng sẩy quá kỹ, thường trộn lẫn cả vỏ, nên kê tinh mạch tinh cũng có giá cao hơn. Nhưng dù vậy cũng chẳng thể tốn đến mức này, nhất là vừa qua mùa thu hoạch, giá lương thực đang rẻ nhất trong năm. Nếu là mùa xuân năm sau thì giá này còn chấp nhận được.
Phỉ Tiềm không thấy cần phải tranh chấp vì vài chậu cơm, bèn nói: “Không sao, đã vậy thì tính thêm hai chậu nữa là được.” Rồi ông quay qua hỏi đám binh sĩ, hai chậu nữa đã đủ chưa. Cả đám binh sĩ cùng nhau trả lời đủ rồi, có người còn bảo một chậu cũng được. Phỉ Tiềm cười, bảo không sao, đi đường vất vả, ăn thêm cho khỏe.
Tuy nhiên, để dịch trưởng không xem thường, ông hỏi rõ dịch trưởng từng mục chi phí, xem có khoản nào cần chi thêm không. Dịch trưởng thấy cơ hội kiếm chác, liến thoắng kể đủ thứ, nào là tiền cơm tối, tiền cơm sáng hôm sau, tiền cỏ và nước cho ngựa, tiền thức ăn thêm nửa đêm, tiền nghỉ qua đêm cho cả đoàn, và nếu muốn nhờ binh lính trạm dịch canh đồ đạc qua đêm cũng tốn phí…
Dịch trưởng cười nói lảm nhảm tính toán, thấy Phỉ Tiềm nghe đến ngẩn người thì trong bụng đắc ý, thầm nghĩ kẻ như ông ta gặp nhiều rồi, có hỏi kỹ lưỡng thì cũng không thể nhớ hết, đến mai khi tính sổ, tăng thêm vài mục cũng chẳng ai tính lại nổi.
Ai ngờ Phỉ Tiềm nhẩm tính một lúc, liền sai Phúc thúc lấy giấy bút, ghi lại từng mục chi phí mà dịch trưởng đã báo, rồi viết kết quả, đưa cho dịch trưởng nói: “Dịch trưởng xem lại, theo lời ông, tổng cộng là hai ngàn bảy trăm ba mươi sáu văn tiền. Lúc nãy đã đưa ba đậu bạc, tính theo tỷ giá hiện tại là chín trăm năm mươi văn một đậu bạc, vậy ông phải thối lại cho ta một trăm mười bốn văn.”
“Cái… cái gì?!” Dịch trưởng nhận lấy giấy, tính toán lại một hồi, mồ hôi túa ra, sau cùng đành cúi đầu thất vọng đáp: “Lời của lang quân… quả thực không sai…”
Phỉ Tiềm cười nhạt, nói: “Nếu vậy, số tiền còn dư cứ tạm gửi lại đây. Nếu ngày mai chúng ta thấy hài lòng, có thể thưởng lại cho ông.”
“Dạ! Lang quân cứ yên tâm, tiểu nhân đảm bảo quý khách hài lòng…” Dịch trưởng vừa lau mồ hôi vừa cúi đầu khúm núm, quay lại thấy đám nhân viên đứng xem, lập tức trừng mắt mắng: “Lũ lười biếng kia, còn không mau đun nước nóng, để vài vị khách quý rửa mặt nghỉ ngơi!”
Về tỷ giá đồng tiền thời Hán đã quá xa xưa, tỷ lệ giữa bạc và tiền đồng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa có dữ liệu chính xác. Tạm thời lấy tỷ lệ chung là 1:1000, có tính thêm phí hao hụt khi đổi, ở đây áp dụng 1:950. Nếu có bạn đọc nào cung cấp được tư liệu cụ thể hơn, tác giả sẽ điều chỉnh lại cho phù hợp… Nhân dịp Tết Nguyên Đán, xin thêm một chương mừng năm mới… Cảm ơn bạn đọc, chúc mừng năm mới! ( )