Khi Phỉ Tiềm đến thăm nhà họ Thôi để gặp Thôi Hậu, thì Lý Nho lại có phần khinh miệt, tiện tay ném một bài hát dân gian vừa được thuộc hạ sao chép lên bàn. Gần đây, trong kinh thành bỗng lan truyền một bài đồng dao:
"Đời Thừa Lạc, Đổng bỏ trốn;
Dạo bốn phương, Đổng bỏ trốn.
Nhờ ân vua, Đổng bỏ trốn;
Đeo kim tử, Đổng bỏ trốn.
Hành lễ tạ, Đổng bỏ trốn;
Chỉnh xe ngựa, Đổng bỏ trốn.
Muốn xuất binh, Đổng bỏ trốn;
Cùng từ giã, Đổng bỏ trốn.
Ra cửa Tây, Đổng bỏ trốn;
Ngắm cung điện, Đổng bỏ trốn.
Nhìn kinh thành, Đổng bỏ trốn;
Ngày đêm dứt, Đổng bỏ trốn.
Lòng đớn đau, Đổng bỏ trốn."
Lý Nho cảm thấy khó chịu không rõ nguyên do. Những kẻ sĩ tộc này ngày ngày chỉ biết rình rập chơi trò này sau lưng người khác, chẳng lẽ không thể làm chút việc có ích cho xã hội? Mấy lời đồn đãi này như ruồi nhặng, vo ve không dứt. Muốn tiêu diệt chúng tận gốc thì lại thấy như làm chuyện nhỏ xé to, nhưng không bận tâm thì lại cảm thấy phiền phức khó chịu.
Lý Nho nhìn đống tấu biểu chất đống trên bàn. Đổng Trác có thể mặc kệ triều chính để vui chơi với mỹ nữ, nhưng Lý Nho thì không. Tam công phần lớn giờ đây đều lấy cớ bệnh, không chịu ra mặt, bỏ mặc tất cả công vụ của triều đình cho ông gánh vác. Nếu Lý Nho không xử lý, thì trung ương triều Hán chẳng khác nào rơi vào tình trạng tê liệt hoàn toàn.
May thay, triều đình thời Hán vẫn còn thuộc chế độ phong kiến với mức độ tập quyền thấp. Các địa phương có khả năng và ý thức tự trị nhất định, giúp giảm bớt phần nào gánh nặng cho Lý Nho. Nếu không, chỉ cần chờ đến khi báo cáo từ địa phương đến nơi rồi phản hồi trở lại, có lẽ mọi chuyện đã trở nên hư hại.
Hiện tại, vấn đề lớn nhất của Đông Hán không chỉ là loạn Hoàng Cân, mà còn là thiên tai ở nhiều nơi. Từ tình hình báo cáo cho thấy: tháng Sáu, quận Hoằng Nông và Tam Phụ gặp nạn sâu đục phá hoại mùa màng; tháng Tám, kinh sư động đất; mùa thu, Cửu Tuyền động đất; sông Kim Thành dâng tràn hơn hai mươi dặm. Khi Lý Nho tiếp nhận công việc chính sự, nhận ra rằng từ tháng Sáu đến nay vẫn chưa có một hồi đáp nào cho những báo cáo này.
Không chỉ vậy, đám sĩ tộc thanh lưu này còn nhàn rỗi đến mức bày ra một bài hát để lan truyền khắp nơi. Đôi khi, Lý Nho dường như có dự cảm rằng, may là ông đã chọn đi theo con đường bá đạo. Nếu chọn vương đạo, thì với thời gian dài như vậy, chắc chắn thiên tai sẽ còn xuất hiện thường xuyên hơn, đè nặng lên vai ông.
Tuy vậy, con đường bá đạo cũng không hề ít những mâu thuẫn và khó khăn. Phái thanh lưu do họ Vương và họ Viên đại diện, tuy cùng Đổng Trác lập lên Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, nhận được chức quan và tạm thời nằm yên trong bóng tối, nhưng Lý Nho hiểu rõ, cơn sóng ngầm dưới sự yên lặng này lớn đến nhường nào.
Về phe thanh lưu ngoài triều, từ bài đồng dao lan rộng đột ngột khắp kinh thành này, Lý Nho không tin nổi nếu bảo rằng không có người đứng sau giật dây. Dù là thanh lưu nắm quyền hay ngoài quyền, ít nhiều đều có liên quan đến nhà Vương và nhà Viên.
Thượng thư Lư Thực đã từ quan, Trung quân hiệu úy Viên Thiệu đã bỏ đi, Điển quân hiệu úy Tào Tháo đã từng cướp vua, Hậu quân hiệu úy Bào Tín thì biệt tăm… Còn Viên Thuật, từng dự định phong Viên Thuật làm Hậu tướng quân để lôi kéo nhà họ Viên và trấn áp nhà họ Vương, thế nhưng y cũng đã bỏ trốn. Lão cáo già Viên Nguỵ còn biện bạch rằng Viên Thuật bị vu cáo nên sợ hãi mà trốn, nhưng ai cũng biết rõ Viên Thuật chắc chắn có dính líu trong vụ cướp vua vừa rồi, chỉ là chưa đủ chứng cứ để kết tội mà thôi.
Lý Nho đã suy nghĩ kỹ, quyết định phải sớm giải quyết những vấn đề này. Đám người như Viên Thiệu bỏ trốn khỏi Lạc Dương chẳng khác nào những khối mủ, nếu để lâu sẽ dẫn đến hoại tử, nhưng nếu chích sớm thì có thể chỉ đau trong chốc lát. Lý Nho muốn nhân lúc chúng chưa phát triển đầy đủ mà tiêu diệt hết. Việc tốt nhất bây giờ là dụ tất cả kẻ thù tiềm ẩn ra ngoài, rồi tiêu diệt sạch sẽ trong một lần, để con đường bá đạo này có thể đi đến cuối cùng trong thời gian ngắn nhất.
Nếu mọi việc thuận lợi, Lý Nho còn có nhiều dự tính cần phải thực hiện. Nhà Đông Hán đã thiếu nợ thế hệ của họ ba trăm ba mươi bảy năm, nên dẫu thế nào cũng cần phải đưa ra một lời giải thích rõ ràng. Cho dù cả thế gian đều quên lãng, thì những năm tháng ăn nhọc chịu khổ nơi biên cương vẫn mãi không phai mờ trong ký ức của ông và tổ tiên.
Lý Nho khẽ cười, những gì Đổng khởi đầu, sẽ do Đổng bây giờ kết thúc, chẳng phải là sự châm biếm lớn nhất và lời đáp trả tốt nhất sao? Nhưng trước khi thực hiện điều đó, ông vẫn cần phải xem xét tình trạng của Đổng Trác. Dạo này Đổng Trác say mê nữ sắc quá lâu rồi… Cái tên họ Đổng chưa từng thấy thế gian này, ngày xưa ở Tây Lương hùng tâm tráng chí ra sao? Thật khiến người ta phiền lòng.
Phỉ Tiềm trở về nhà, bất ngờ thay, Trương Liêu đến thăm. Không chỉ thế, Trương Liêu còn mang theo một cây trường thương mà anh đã từng dùng, tặng cho Phỉ Tiềm, khiến Phỉ Tiềm hết sức ngạc nhiên và vui mừng, vội vàng bảo Phúc thúc chuẩn bị chút rượu và đồ nhắm, mời Trương Liêu ở lại dùng bữa. Trương Liêu cũng không khách sáo, chỉ nói một câu cảm phiền rồi nhập tiệc.
Trương Liêu, tự Văn Viễn, tuổi tác cũng xấp xỉ Phỉ Tiềm, nhưng do trải qua nhiều năm chinh chiến và luyện võ nên bề ngoài trông có vẻ chững chạc hơn. Xuất thân từ Mã Ấp ở Nhạn Môn, tuy yêu thích võ nghệ từ nhỏ nhưng vốn thuộc gia đình thư hương. Sau này, vì người Tiên Ti xâm lược cướp bóc, gia cảnh tan nát, Trương Liêu uất hận mà tòng quân, cùng Lữ Bố đánh lui quân Tiên Ti từ phương Bắc xuống, cho đến khi Đinh Nguyên dẫn họ về Lạc Dương.
Hiện tại, Trương Liêu đã được thăng chức làm Hộ quân hiệu úy, từ một Giả quân hầu quản lý dưới hai trăm binh mã, giờ phải quản lý gần hai bộ quân sĩ. Tuy không phải hiệu úy đầy đủ quân số, nhưng sự khác biệt về số lượng khiến Trương Liêu đôi lúc khó lòng thích ứng, khiến anh nhiều lúc phiền lòng.
Chiến tranh, đôi khi, là cuộc chiến của hậu cần. Trước kia Trương Liêu chỉ cần lo việc hậu cần cho chưa đến hai trăm người, giờ đột ngột tăng lên gần nghìn người, các phép tính trước đây của anh không còn phù hợp. Dù có tùy quân thư lại hỗ trợ tính toán, nhưng Trương Liêu vẫn nghĩ rằng nếu mình có thể tự tính toán thì sẽ tốt hơn. May thay, anh quen biết Phỉ Tiềm, đệ tử của danh toán học gia Lưu Hồng, nên lấy cớ tặng thương để đến nhờ Phỉ Tiềm chỉ dẫn cách tính toán hậu cần.
Hậu cần quân đội thời Hán rất phức tạp. Nguồn lương thảo chủ yếu đến từ hai nguồn: “chư phú” là thuế cố định do dân chúng nộp, và “điều” là khoản phân bổ thêm từ dân chúng nơi đóng quân. Chỉ riêng “chư phú” đã có nhiều loại dành cho quân dụng: khẩu tiền, nguyệt hưởng, tư phú, quân hao… Bên cạnh đó, còn có các loại binh khí như đao kiếm, giáo mác… đều phải đăng ký, nhận lĩnh, kiểm kê, hao tổn, báo phế. Rồi phải lập thành văn bản, tiền lương phải đến Thiếu phủ lĩnh, vũ khí thì tới Vũ khố nhận. Đôi khi, Thiếu phủ hay Vũ khố còn phát phiếu để tự đến các công xưởng lấy hàng. Ví dụ như chỉ riêng xưởng binh khí quân dụng đã có các nơi như Nhược Lư, Khảo Công, Thượng Phương, Nội Quan, Tả Dịch, Tự Công…
Các nơi khác nhau lại có số lượng nhu yếu phẩm khác nhau. Chẳng hạn, số lượng giáp trụ chắc chắn không thể bằng số lượng đầu mũi tên. Vì thế, con số cần tính toán không hề ít, khiến Trương Liêu hoa mắt chóng mặt. Anh biết rõ đám tùy quân thư lại đôi lúc có thể động tay động chân, nhưng vẫn chưa tìm ra cách kiểm chứng. Lần này đến gặp Phỉ Tiềm, chủ yếu là để học hỏi.
“Đổng Đào Ca” vốn là bài hát dân gian lưu truyền sau khi Đổng Trác dời đô, nhưng tác giả đã đưa nó vào trước thời điểm này.