Chương 39: Giao kèo trước khi bái sư

Thái Học là học phủ cao cấp đầu tiên của Trung Quốc. Trước thời Hán, tri thức vốn chỉ là tài sản riêng của các gia tộc, ít khi truyền dạy công khai, bởi thế, việc Khổng Thánh nhân thu nhận môn đồ rộng rãi khiến ngài được kính trọng vô cùng. Dẫu vậy, cũng có thuyết cho rằng Khổng Tử chỉ thu nhận 72 đệ tử chính thức, được ghi chép là “hữu quán giả ngũ lục, đồng tử lục thất,” tổng cộng đúng 72 người. Nhưng qua nghiên cứu, các học giả ước tính rằng suốt cuộc đời Khổng Tử đã nhận khoảng 2000-3000 môn sinh, nhưng chỉ có vài người nổi danh.

Trong lịch sử, đóng góp của Nho gia trong lĩnh vực giáo dục quả thật vượt trội hơn các học phái khác. Tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Nho gia, tức là giáo dục không phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp, đối với người đương thời chẳng khác nào phúc lành từ trời ban.

Năm Nguyên Sóc thứ năm (124 TCN), Hán Vũ Đế chấp thuận đề xuất của Đổng Trọng Thư, người mong muốn “xin bệ hạ hưng khởi Thái Học, đặt danh sư, để nuôi dưỡng nhân sĩ thiên hạ,” và lập ra Thái Học ở Trường An để truyền dạy các kinh điển Nho gia như Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu.

Dẫu Đổng Trọng Thư thiết lập Thái Học chỉ nhằm phổ biến tư tưởng của mình, không được bao quát và phong phú như các đại học sau này, nhưng đối với người cổ đại, có được nơi để học hỏi tri thức đã là may mắn lớn lao.

Thời bấy giờ, đa phần tri thức bị các gia tộc giữ kín, hiếm khi truyền ra ngoài, nói chi đến việc truyền thụ cho người ngoài gia tộc. Do đó, sự thành lập của Thái Học tựa như một cơn lốc xoáy trong giới học thuật, đồng thời củng cố địa vị của Nho gia.

Trong Lễ Ký·Vương Chế có ghi rằng: “Vương tử mạng chi giáo, nhiên hậu vi học. Tiểu học tại công cung nam chi tả, đại học tại giao, thiên tử viết Tịch Ung, chư hầu viết Phán Cung.” Ở đây, “Tịch Ung” là mô hình của đại học quốc gia, còn “Phán Cung” tại các quốc đô của chư hầu là đại học địa phương mô phỏng theo Thái Học.

Qua các đời vua thời Hán không ngừng mở rộng, Thái Học từ con số khiêm tốn 50 sinh viên thời Hán Vũ Đế, đến thời Hán Chiêu Đế đã tăng lên 100 người, Hán Tuyên Đế là 200 người, Hán Nguyên Đế vượt mốc 1000 người, thời Hán Thành Đế đạt 3000 người, và thời Vương Mãng tăng vọt lên 10000 người, đến thời Đông Hán Chất Đế đã đạt con số “du học tăng mạnh, đến hơn ba vạn người.”

Ba vạn học sinh là một con số không nhỏ, tương đương số lượng sinh viên của một đại học hiện đại.

Số lượng học sinh đông đảo tất yếu hình thành chuỗi cung ứng cho ăn ở, sinh hoạt. Thời Đông Hán, riêng khu ký túc cho học sinh Thái Học đã có đến “hai trăm bốn mươi phòng, một ngàn tám trăm năm mươi gian,” chưa kể các tiện nghi khác.

Học sinh quây quần, toàn những thanh niên nhiệt huyết, thường hay bàn luận về các chính sách quốc gia, nảy ra những ý tưởng và khát vọng. Ai cũng nghĩ, nếu một ngày nào đó ta làm quan, ta sẽ làm thế này, thế kia…

Bình thường chỉ là nói cho vui, nhưng không tránh được có kẻ muốn kích động. Thế nên không ít lần học sinh Thái Học đã tham gia vào chính trị quốc gia. Thời Tây Hán Ai Đế, một môn sinh là Vương Hàm từng tụ tập hàng ngàn học sinh Thái Học để cứu giúp Tư Lệ Hiệu Úy Bạo Tuyên vì thực thi pháp luật một cách công tâm. Cuối thời Đông Hán, Trần Phồn và Lý Ưng cũng kêu gọi học sinh Thái Học phản đối thế lực lộng quyền của hoạn quan, khiến cho học sinh Thái Học trở thành mục tiêu đàn áp của phe hoạn quan. Không ít người liên can bị giam cầm, có lần lên đến cả ngàn người, và Thái Học từng bị đóng cửa.

Sau này, khi Hán Linh Đế tiến hành ân xá cho những người trong vụ án Đảng cố, Thái Học được mở cửa lại và tiếp tục chiêu sinh.

Lẽ ra Phỉ Tiềm đã là quan Lang Trung, không cần thiết phải đi con đường của Thái Học. Nhưng khổ nỗi Thái Học có Thái Học Bác Sĩ là Thái Ung – người được coi là danh sư nổi tiếng. Riêng Thái Ung đã giảng dạy các môn như Thi, Thư, Xuân Thu, Nhĩ Nhã, và còn mở riêng lớp dạy nhạc cụ. Mà các môn học của Thái Ung không phải học sinh nào cũng muốn học là học được, phải tùy vào tâm trạng của Thái Ung, mỗi tháng chỉ có hai ngày giảng dạy, nội dung cụ thể do Thái Ung quyết định, chỉ cần báo trước cho quản sự Thái Học mấy ngày.

Mỗi lần học sinh mới nhập học, Thái Học đều mời Thái Ung đại diện cho các bậc Bác Sĩ tham gia lễ bái sư của tân sinh. Lần này, Thái Ung gọi Phỉ Tiềm đến để thực hiện lễ bái sư cùng tân sinh trong mùa thu, vừa để tận dụng nghi thức long trọng nhất, vừa thể hiện sự coi trọng dành cho Phỉ Tiềm.

Vì vậy, Phỉ Tiềm đã chuẩn bị đầy đủ lễ vật bái sư, đứng phía sau hàng ngũ tân sinh mùa thu, đợi chờ Thái Ung gọi tên.

Tuy nhiên, việc nhận đồ đệ của Thái Ung sẽ không thể diễn ra trước công việc chính thức, nên trước tiên là lễ bái sư của tất cả học sinh mùa thu.

Hôm nay, các tân sinh của kỳ thi mùa thu đều mặc thanh cân – áo dài giao lĩnh xanh sẫm, đầu đội mũ học sinh, xếp thành một đội hình chỉnh tề.

Sau lưng đội hình học sinh, Phỉ Tiềm đứng một mình trong trang phục Lang Quan, khoác bên ngoài áo choàng tím xanh viền đen, bên trong là áo tằm xanh lơ, đầu đội mũ Lang Quan. So với đám học sinh, Phỉ Tiềm nổi bật như một con hạc đứng giữa bầy gà, khác biệt hẳn.

Phỉ Tiềm cảm thấy ánh mắt của mọi người thi thoảng lại liếc về phía mình, trong lòng có chút không thoải mái. Nhưng với kinh nghiệm rèn giũa nhiều năm nơi chốn quan trường, dù lòng có chút gượng gạo, nét mặt vẫn không lộ ra, chỉ mỉm cười nhã nhặn, đứng vững vàng, không nhúc nhích.

Dù Phỉ Tiềm cảm thấy hơi khó xử, nhưng không biết rằng ánh mắt người xung quanh đều đang sáng rực lên – đệ tử mới của Thái Ung đó, lại còn là tân quan Lang đó, mà trông lại tuấn tú thế, chưa lập gia thất nữa, ồ ồ…

Khác với Phỉ Tiềm đang phải chịu ánh mắt xoi mói, Thái Ung trông thấy Lưu Hồng đứng cạnh mình thì thầm bực dọc – ta mời ngươi đến dự lễ, ngươi lại đến với bộ áo Bác Sĩ giống hệt ta, rốt cuộc ngươi định làm gì đây?

Thật ra, Lưu Hồng cũng là một thầy dạy Toán Kinh được Thái Học mời đặc cách, nên cũng có một bộ áo Bác Sĩ riêng, chỉ là chưa từng nói với Thái Ung, mà Thái Ung cũng chưa bao giờ hỏi quản sự Thái Học.

Nhân lúc nhạc lễ bái sư của Thái Học nổi lên, Thái Ung cúi thấp hỏi Lưu Hồng: “Ngươi muốn làm gì đây?”

Lưu Hồng nửa đùa nửa thật đáp: “Ta thấy lễ vật mà Tử Uyên mang đến không tồi, chia cho ta một nửa được không?”

Thái Ung trợn mắt nhìn, hóa ra là muốn tranh đồ đệ với ta, hừ một tiếng: “Tuyệt đối không được!”

Lưu Hồng không để ý thái độ của Thái Ung, dù sao là mình giành đồ đệ người ta, nếu đổi lại là người khác đến giành đồ đệ của mình, thái độ

chắc chắn sẽ tệ hơn cả Thái Ung.

Nhưng Lưu Hồng đã có chuẩn bị, ghé sát thì thầm: “Ta trước đây ở Quận Hội Kê tình cờ tìm được một cuốn Đạo Nguyên Kinh của Hoàng Đế, nếu ngươi, hừm hừm…”

Thái Ung giật mình: “Đạo Nguyên Kinh? Ý ngươi là một trong bốn cuốn Hoàng Đế Tứ Kinh đã thất truyền sao?”

“Ta đã xem qua rồi, đúng là Đạo Nguyên Kinh không sai, có lẽ thế gian này chỉ còn lại một cuốn thôi…”

Thái Ung trầm ngâm một lúc, đành cắn răng đáp: “Cũng không được, chỉ là một cuốn sách thôi, thư tịch nhà ta có cả vạn quyển, đâu thiếu một quyển.” Miệng nói vậy, nhưng biểu cảm của Thái Ung thì rõ ràng cho thấy trong lòng luyến tiếc không ít.

“Khụ khụ, thêm cây ‘Lục Khải’ thì thế nào? Nếu ngươi vẫn không đồng ý, ta chỉ đành mang về làm truyền gia chi bảo cho họ Lưu nhà ta thôi…”

“Lục Khải của Tư Mã Tương Như? Ngươi không được lừa ta!” Thái Ung trợn mắt nhìn Lưu Hồng.

“Một quyển sách tuyệt thế, thêm một cây cầm vô giá, chỉ để đổi lấy một nửa đồ đệ của ngươi, nói một lời đi! Đó là Đạo Nguyên Kinh đấy, là cầm Lục Khải đấy…”

Thái Ung nhắm mắt cắn răng hồi lâu, cuối cùng thốt lên yếu ớt: “Ngươi chỉ được lấy một nửa, không được hơn…”