Lý Nho tỏ ra rất thư thái, vẻ mặt đầy tự tin.
Đổng Trác lại như đắm chìm trong sương mù, hoàn toàn không hiểu tại sao Lý Nho lại nói như thế. Xem ra, việc Viên Thiệu ra đi lại có vẻ là chuyện tốt?
Lý Nho giải thích: “Đây không phải vì Viên Thiệu không muốn, mà là vì gia tộc họ Viên bất hòa, thưa Minh Công có thể sai người đến hỏi lại Viên Nghị, đại sự có thể thành. Viên Thiệu treo tiết mà không bỏ ấn, cho thấy y vẫn lưu luyến chức vị. Chỉ cần hứa hẹn chút lợi ích, y tự nhiên sẽ không thành vấn đề.”
Trong thời cổ, tiết và thụ là hai biểu tượng đi liền với nhau của quan chức. Tiết là biểu tượng của quyền hành và sự đặc biệt khi đi lại, còn ấn thụ được dùng khi ban hành mệnh lệnh. Viên Thiệu chỉ treo tiết trượng lên cửa thành mà không để lại ấn thụ, điều này chứng tỏ trong lòng y vẫn chưa muốn rời bỏ chức vị. Nếu đã vậy, thì hành động treo tiết từ quan chỉ là một cách biểu thị thái độ.
Viên Thiệu muốn thể hiện thái độ gì?
Nghĩ về những lời của Viên Thiệu trước đây, rõ ràng là sự phản đối việc Đổng Trác phế đế.
Lý Nho tổng hợp những tình huống này, nhanh chóng suy luận ra rằng Viên gia, cụ thể là Viên Nghị, thực ra không có ý kiến gì lớn về việc phế đế. Khi Viên gia không phản đối, thì việc phế đế trở thành điều tất yếu.
Vì nếu Viên Nghị phản đối việc phế đế, thì Viên Thiệu và Viên Nghị sẽ có cùng quan điểm và cùng nhau phản kháng Đổng Trác. Cần gì để Viên Thiệu phải bỏ đi và mất luôn quyền kiểm soát quân Trung quân trong Tây Viên?
Chính hành động nửa vời, treo tiết nhưng vẫn giữ ấn của Viên Thiệu cho thấy Viên Nghị đồng ý hoặc ít nhất là ngầm đồng ý với việc phế đế, trong khi ý kiến của Viên Thiệu lại trái ngược với Viên Nghị. Bởi vậy, Viên Thiệu không chỉ không được gia tộc ủng hộ, mà còn bị Đổng Trác đẩy ra ngoài, chỉ còn cách duy nhất là rời bỏ kinh thành.
Lý Nho nhìn Đổng Trác, thấy ông vẫn chưa hiểu rõ, bèn giải thích thêm: “Ta từng nghe rằng, dù Viên Thiệu là con trưởng, nhưng vốn là con thứ, không được Viên Nghị chấp nhận.”
Đổng Trác “ồ” lên một tiếng, thầm nghĩ: "Ta cứ ngỡ Viên Thiệu là trưởng tử, có tiếng nói trong nhà, nếu biết trước đã gọi Viên Thuật tới cho khỏi phiền phức."
Lý Nho mỉm cười: “Viên gia bất hòa là điều tốt, Minh Công có thể chia rẽ và dụ dỗ họ.”
Đổng Trác gật đầu, nói: “Vậy theo ý Văn Ưu.”
Tin tức Viên Thiệu từ quan rời kinh thành lan truyền nhanh như gió khắp Lạc Dương.
Viên gia là dòng họ lãnh đạo trong giới thanh lưu sĩ tộc, nên nhất cử nhất động của họ đều thu hút sự chú ý. Một sự việc đầy kịch tính xảy ra với Viên gia, sao có thể không khiến mọi người trong thành Lạc Dương, từ sĩ tộc tới dân thường, không đồn đoán bàn tán?
Tin này tự nhiên cũng đến tai Tào Tháo.
Tào Tháo lúc đầu ngẩn người ra, sau đó liền bật dậy, lao thẳng tới chuồng ngựa ở nhà, dắt ngựa ra và cưỡi ngay ra cổng Đông.
Ngoài thành Lạc Dương, dòng người tấp nập nhưng Tào Tháo chỉ thấy từng cơn gió thu xào xạc, lá vàng rụng rơi, cát vàng mịt mờ, phóng mắt nhìn xa mà không còn thấy bóng dáng quen thuộc nào.
Tào Tháo biết rõ trong lòng rằng Viên Thiệu đã đi xa, nhưng vẫn ôm một chút hy vọng. Khi thúc ngựa chạy ba, năm dặm, chàng mới chậm rãi ghìm cương ngựa, tiếp tục theo con đường, lòng đầy những suy tư khó tả.
Viên Thiệu, Viên Bản Sơ, ngươi thật sự đã bỏ đi như vậy sao?!
Ngươi làm như thế là vì điều gì?
Chẳng lẽ kinh thành Lạc Dương này đã không thể dung chứa ngươi nữa rồi sao?
Xưa nay, chuyện tranh chấp giữa con cả và con thứ là chuyện thường thấy ở thế gia, và may mắn là Tào Tháo không phải chịu cảnh tranh đoạt ấy. Tào Tháo đã biết rất rõ mối bất hòa giữa hai anh em nhà họ Viên, nhưng không ngờ rằng xung đột ấy lại trở nên nghiêm trọng đến mức đẩy Viên Thiệu rời bỏ gia tộc.
Từ sau biến cố nơi cổng cung đình của Đại Tướng Quân Hà Tiến, Tào Tháo từng cho rằng Viên Thiệu đã thỏa hiệp với Viên gia, cam chịu nhún nhường và mến chức vị. Vì vậy, chàng cố tình giữ khoảng cách với Viên Thiệu, thậm chí vài lần gặp còn cố ý lảng tránh. Nhưng giờ xem ra không phải vậy, nếu không Viên Thiệu đâu cần phải từ quan bỏ trốn, nên lúc này tâm trạng Tào Tháo thật khó diễn tả.
Tào Tháo buông cương ngựa, đi dọc theo con đường, chẳng mấy chốc đã đến trước một khu rừng nhỏ ở phía đông thành. Đột nhiên, chàng nhận ra khu rừng này có chút gì đó quen thuộc, bèn xuống ngựa, dắt ngựa đi chầm chậm vào rừng.
Khu rừng không lớn lắm, Tào Tháo đi vào khoảng hai, ba chục bước thì đến một khoảng đất trống rộng chừng một trượng vuông, chợt thấy ở giữa khoảng trống có một tảng đá đen lớn đã bị cỏ dại che khuất, khiến chàng không khỏi bồi hồi…
Ánh nắng xuyên qua tán lá, lốm đốm chiếu xuống mặt đất, gió lay lá cây tạo ra những âm thanh xào xạc.
Trên khoảng đất trống trong rừng, lá khô và cỏ dại đã phủ kín một lớp dày, rõ ràng nơi này đã lâu không có người lui tới.
Thì ra là nơi này, đã lâu chúng ta chưa từng đến…
Tào Tháo buộc ngựa bên gốc cây, rồi từ từ đi đến tảng đá lớn, trèo lên ngồi xuống. Tảng đá mà ngày nhỏ phải gắng sức mới leo lên được, nay chỉ cần chút lực là có thể ngồi lên dễ dàng.
Nơi đây, ngày xưa chàng, Viên Thiệu và Viên Thuật thường tới. Họ từng chơi đùa ở đây, luyện võ ở đây, thao diễn binh pháp, bàn luận thế sự và chỉ điểm giang sơn…
Tào Tháo như vẫn còn thấy ba đứa trẻ con đang chạy nhảy vui đùa, cười đùa hò hét trước mắt…
Họ từng giơ kiếm lên đối chiến, thề nguyền sẽ mãi là anh em tốt, sẽ cùng nhau trở thành những anh hùng giúp Hán thất…
Họ từng học sách binh thư, xếp đá làm binh, nặn cát làm thành, tranh luận đến đỏ mặt tía tai…
Họ từng trộm tiền nhà, mua rượu thịt, lén lút uống say đến trời đất quay cuồng, để rồi về nhà bị đòn đau đến nỗi cả mấy ngày không ngồi nổi…
Họ từng bày mưu tính kế cướp lúa mới, ba người cải trang che mặt, thành công rồi lại bỏ luôn cả số lúa vừa cướp giữa đường…
Tào Tháo càng nghĩ càng cười, nhưng nụ cười nhanh chóng tan biến.
Nơi đây chứa đựng những ký ức vui vẻ và trong sáng nhất của ba người. Giờ đây, lòng đã rời xa, người cũng chia ly…
Thời thơ ấu không cần biết quá nhiều, cũng không hiểu được nhiều. Lớn lên rồi lại phải hiểu nhiều điều, gia tộc, tài sản, địa vị, tình nghĩa… tất cả dần chôn vùi sự chân thành trong tim.
Nếu không đến nơi đây, có lẽ Tào Tháo cũng đã quên mất ba người từng có một chỗ như thế này, nơi họ gọi là căn cứ bí mật của mình.
“Bản Sơ huynh, lần này chia ly, mỗi người một phương, mong rằng chúng ta vẫn còn ngày gặp lại, đến lúc đó ta sẽ cùng huynh uống rượu giải sầu…” Tào Tháo th
ở dài. Thật đáng tiếc là chàng không biết Viên Thiệu sắp đi, nếu không cũng phải chuẩn bị một bữa rượu tiễn biệt mới phải, đành chờ ngày tái ngộ sẽ bù đắp vậy.
Tào Tháo ngồi lặng thật lâu, khi định đứng dậy rời khỏi tảng đá thì cảm thấy có gì đó khác lạ trên bề mặt tảng đá. Chàng cúi xuống xem thì thấy trên mặt đá có khắc bốn chữ mới tinh: “Hậu hội hữu kỳ.”
Tào Tháo không khỏi bồi hồi xúc động: “Bản Sơ huynh, hậu hội hữu kỳ…”
Tam Quốc có quá nhiều vẻ đẹp, và cũng có quá nhiều sự tàn khốc, anh em vì nhiều lý do mà đâm sau lưng nhau cũng không ít… Có lẽ chính sự tàn khốc ấy tạo nên vẻ đẹp của Tam Quốc… Người mới viết lách thật không dễ dàng, xin mọi người dành tặng phiếu đề cử và thêm vào tủ sách, cùng nhau đồng hành qua Tam Quốc… Xin cảm ơn bạn đọc có mã 10688…