Phỉ Tiềm ấp úng hỏi: “Vậy... vậy chẳng phải là nếu thế này thì vai trò của võ dũng cá nhân sẽ nhỏ hơn sức mạnh của cả quân đoàn sao?”
Hoàng Trung đáp: “Cũng gần như thế. Quy mô quân đoàn càng lớn, vai trò của võ dũng cá nhân càng nhỏ. Nói chung, nếu là quy mô vạn quân, thì chủ yếu là dựa vào khả năng tác chiến toàn diện của quân đoàn và sự điều động, ứng biến của tướng lĩnh. Võ tướng dũng mãnh có tác dụng trong việc phá vỡ hay tấn công một phần nhỏ quân lực đối phương, nhưng cái gọi là ‘vạn người địch’ thì…”
Hoàng Trung lắc đầu, tỏ ý rằng chuyện đó không mấy đáng tin.
Hoàng Trung nói tiếp: “Có một trường hợp khác, đó là khi gặp đối phương trong trận địa mà thế trận chỉnh tề, thông thường sẽ phái một hai tướng lĩnh võ nghệ cao cường ra để khiêu chiến thử sức. Đây gọi là trận tiền đơn đấu. Ngoài hình thức ‘giao đấu theo hồi’, còn có hai kiểu đấu khác giữa các võ tướng: một là ‘đối viên’, hai là ‘kéo đao’…”
Hoàng Trung tiếp tục giải thích, rằng từ cuối thời Chiến Quốc đến thời Hán, để cổ vũ sĩ khí phe mình và đánh vào tinh thần đối phương, vẫn có khi diễn ra cảnh khiêu chiến đơn đấu.
Nhưng vì kỵ chiến khác với xa chiến thời Chiến Quốc ở chỗ ngựa linh hoạt hơn chiến xa nhiều, nên hai tướng kỵ chiến không chỉ dựa vào một lần xung phong mà phân thắng bại. Có hai kiểu đối chiến phổ biến:
Kiểu thứ nhất, “đối viên”, hai ngựa cùng chạy vòng tròn với bán kính nhỏ, bán kính này dựa vào khoảng cách mà binh khí của cả hai bên có thể gây sát thương, kiểu này là dạng giao đấu trong thời gian dài.
Kiểu thứ hai, “kéo đao”, là cuộc rượt đuổi ở khoảng cách gần, khi hai ngựa cùng chạy, một bên chạy trốn, một bên truy đuổi. Thời gian kéo dài tùy thuộc vào tốc độ và sức bền của ngựa.
Phỉ Tiềm gật đầu, hiểu ra, thì ra “kéo đao” là một trong những chiêu sở trường của Quan Công…
Qua lời giải thích của Hoàng Trung, Phỉ Tiềm cũng hiểu ra, trong thời Hán, khi chiến tranh ngày càng phát triển từ thời Chiến Quốc đến nhà Tần và sau đó là nhà Hán, số lượng quân tham chiến không ngừng tăng lên, khiến nhiều quy ước thời Xuân Thu, Chiến Quốc bị thay đổi.
Thời Chiến Quốc, do hạn chế về tiềm lực quốc gia và công cụ sản xuất, các chư hầu khó có thể huy động quy mô lớn quân dân cho chiến tranh. Một lý do khác là khi đó còn duy trì lễ nghĩa Chu triều, nên vẫn có kiểu quyết chiến giữa các dũng sĩ của cả hai bên để phân thắng bại, hậu thế gọi đó là chế độ đơn đấu.
Nhưng đến cuối Chiến Quốc, khi số quân tham chiến ngày càng đông, mục tiêu chiến tranh cũng thay đổi, từ tập trung vào hạ bệ tướng lĩnh đối phương, dần chuyển sang làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của quân địch. Sự thay đổi mục tiêu đó đã khiến nhiều quy ước lễ nghi của thời Chu triều bị phá vỡ hoàn toàn, và nghệ thuật chiến tranh mưu mẹo dần trở thành xu hướng.
Phát triển đến thời Hán, đơn đấu trận tiền không còn quyết định thắng bại của cả một trận chiến. Thành bại của chiến tranh dần dần chuyển từ võ dũng cá nhân sang các yếu tố như hậu cần, huấn luyện, v.v.
Đặc biệt là về lương thảo.
Nếu lương thảo cạn kiệt, lòng quân sẽ loạn, và dù có dũng mãnh đến đâu cũng không chịu nổi ba ngày không có ăn…
Hoàng Trung nói: “Do đó, trong quân trận, không chỉ có chính quân (chính quy quân) là quan trọng mà phụ binh cũng rất quan trọng. Đôi khi cần đến dân phu và tạp dịch địa phương, nhưng những người này thông thường nằm trong trách nhiệm của địa phương, nên có thể không tính vào số quân chính thức…”
“Chính quân và phụ binh?” Phỉ Tiềm hỏi, “Cái đó phân chia thế nào? Đội quân gần một nghìn binh giáp chúng ta mang theo hình như không có phân biệt chính quân và phụ binh gì cả?”
Hoàng Trung nói: “Chúng ta người ít, mang theo đều là chính quân. Nói đơn giản, chính quân là những binh sĩ đã qua huấn luyện, có thể ra trận giết địch và làm một số công việc tạp vụ. Phụ binh thì ngược lại, thông thường chưa qua huấn luyện, chủ yếu làm tạp vụ như dựng doanh trại, vận chuyển lương thảo. Khi cần có thể đưa ra trận, nhưng sức chiến đấu thì thua xa chính quân.”
Phỉ Tiềm gật gù, nghĩ thầm: “Vậy thì nói theo kiểu này, đội quân mới tuyển của Tào Tháo hẳn là phụ binh, còn đội quân khoảng một vạn binh sĩ mà Bão Tín đem đến có lẽ gồm cả chính quân lẫn phụ binh…”
Còn hai nghìn binh giáp mà Trương Mạo cử cho Tào Tháo, có lẽ đa phần đều là chính quân.
Theo lời Hoàng Trung, tùy vào cự ly hành quân và độ khó bổ sung quân nhu, tỉ lệ chính quân và phụ binh cũng khác nhau, nhưng ít nhất phụ binh phải chiếm khoảng ba phần. Có như vậy mới đủ người để dựng doanh trại và vận chuyển lương thảo, nếu không phải huy động chính quân làm những việc này. Nếu không có chiến sự thì không sao, nhưng khi đang chiến đấu, chính quân phải bỏ sức làm những việc tạp vụ sẽ dẫn đến sự mệt mỏi không đáng có, tạo nên vòng luẩn quẩn.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, quân đội đã có sự phân chia thành thượng quân, trung quân và hạ quân, đây cũng là khởi nguồn của danh xưng “tam quân” sau này.
Thượng quân là quân chuyên nghiệp, lực lượng tác chiến chủ lực cho quốc gia, chuyên dùng trong chiến tranh đối ngoại.
Trung quân chủ yếu đảm nhiệm nhiệm vụ phòng thủ và cảnh giới, thiên về phòng thủ.
Hạ quân là quân có tính chất lao dịch, chuyên phụ trách các nhiệm vụ như công trình vận tải và hậu cần.
Đến thời Hán, tình hình khác biệt nên tính chất của các loại quân này cũng có sự thay đổi.
Theo lời Hoàng Trung, cái gọi là chính quân là những tân binh mới tuyển dụng, ban đầu chưa được huấn luyện nên chỉ làm các nhiệm vụ lao dịch. Sau một năm huấn luyện, họ mới được chuyển sang các nhiệm vụ phòng thủ trong làng xã, hạn chế giao chiến trực diện. Chính quân thực sự là những binh sĩ đã nhập ngũ hơn một năm, được giao trọng trách tác chiến, làm lực lượng trung kiên và đảm nhận nhiệm vụ cận chiến.
Do đó, các binh chủng như binh đao khiên, thương binh, đại đao binh đều phải là chính quân, vì họ trực tiếp tham gia cận chiến. Nếu chưa qua huấn luyện bài bản, rất dễ tan rã trên chiến trường, gây ra thất bại.
Các binh chủng đòi hỏi chuyên môn cao như cung thủ, kỵ binh… cũng chủ yếu là chính quân.
“Ra là vậy…” Theo lời Hoàng Trung, liên quân Bão Tín và Tào Tháo có vẻ là hai vạn quân, nhưng thực tế chính quân có lẽ chưa tới một vạn, xem ra cái gọi là “nước” trong quân số, chỗ nào cũng có…
Vậy lần này liên quân của Bão Tín và Tào Tháo có thắng nổi không?
Không rõ bên Đổng Trác sẽ phản ứng ra sao?
Thường thì khi đại quân xuất binh, khó có thể giấu được tung tích, huống chi liên quân Quan Đông lại mang theo cờ xí ‘khôi phục xã tắc’, càng không thể phong tỏa hay sát hại các làng mạc trên đường hành quân. Điều này chắc chắn sẽ bị thám mã của Đổng Trác phát hiện…
Không biết lần này Hoa Hùng có dẫn quân đến chặn đánh không?
Một câu chuyện giữa Lão Tào và Tiểu Tào:
Thế là Tiểu Tào thấy hai người phụ nữ khóc than, liền rút kiếm định chém họ... kéo cô gái đến gần, thấy tóc tai rũ rượi... lấy tay áo lau mặt cô... dung nhan diễm lệ, nhan sắc khuynh quốc. Tiểu Tào nói: “Ta là con của Tào Thừa tướng, sẽ bảo hộ gia đình cô, chớ lo lắng.”... Rồi đặt tay lên kiếm, ngồi ở sảnh đường...
Sự nhạy bén sắc sảo... Có lẽ những kỹ thuật hóa trang tinh vi cũng chẳng qua nổi mắt Tiểu Tào...
Thế nhưng, tại sao Tiểu Tào lại đặt tay lên kiếm ngồi trong sảnh đường nhỉ?
( )