Chương 5: CÁC BẬC MÃNH TƯỚNG

LÊ PHỤNG HIỂU

Lê Phụng Hiểu người làng Băng Sơn, phủ Thanh Hóa (tức là xã Dương Sơn, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa bây giờ). Người cao lớn to tát, râu ria xồm xoàm, gân sức khỏe mạnh. Khi đang trạc 20 tuổi, có hai thôn Cổ Bi, Đàm Xá tranh nhau địa giới, đem dân phu ra đánh nhau. Phụng Hiểu vung cánh tay lên bảo với người làng Cổ Bi rằng:

- Chỉ một mình tôi có thể đánh đổ được muôn người.

Các cụ làng ấy mừng lắm, làm rượu mời Phụng Hiểu ăn uống. Phụng Hiểu uống rượu say rồi ăn hết nồi ba mươi cơm mới no. Bấy giờ mới ra khiêu chiến với người làng Đàm Xá. Khi hai xã giáp chiến, Phụng Hiểu vươn mình lên nhổ một cây to bên vệ đường, cầm ngang trong tay, xông vào đánh dân Đàm Xá. Dân kia rẽ ra mà chạy, không ai dám địch, mà ai địch cũng thua, hoặc chạy không kịp thì chết. Dân ấy sợ hãi phải nhường trả ruộng làng Cổ Bi.

Bấy giờ vua Thái Tổ nhà Lý, kén người có sức khỏe mạnh, để sung vào quân túc vệ. Phụng Hiểu ra ứng mộ hầu hạ vua đắc dụng lắm, dần dần được nhắc lên làm Võ vệ tướng quân.

Khi vua Thái Tổ mất, vua Thái Tôn nối ngôi, có ba vị vương là Dực thánh vương, Võ đức vương và Đông chinh vương mưu làm phản, đem binh phạm vào cửa cung Đại nội, muốn tranh ngôi vua Thái Tôn.

Vua Thái Tôn lo sợ, vời Phụng HIểu mà bảo rằng:

- Việc kíp đến nơi rồi, trẫm không biết nghĩ ra làm sao nữa, cho người được phép tự tiện mà giúp việc cho trẫm.

Phụng Hiểu vâng mệnh, đem quân túc vệ ra cửa cung, đánh nhau với quân ba phủ kia. Phụng Hiểu trông thấy Võ đức vương cưỡi ngựa đứng ngoài cửa Quảng Dương trỏ bảo quân sĩ, Phụng Hiểu hầm hầm nổi giận, cầm gươm xông thẳng đến trước ngựa Võ đức vương, trỏ vào mặt mà quát mắng rằng:

- Các vương dám dòm nom thần khí, coi thường thiên tử, trên thì quên ơn Tiên đế dưới thì trái nghĩa tôi con. Tôi là Phụng Hiểu đây, xin dâng đại vương một thanh kiếm này!

Nói đoạn, xông thẳng vào chém, các quân chống lại không nổi, chạy dãn ra bốn phía. Võ đức vương toan quay ngựa, nhưng chạy không kịp, bị chém ngã quay xuống đất.

Quân ba phủ kia thấy vậy, người nào người nấy tìm đường tháo thân, quân túc vệ thừa thế đành tràn ra, giết quân ba phủ không còn mống nào, chỉ có hai vị vương kia chạy được thoát.

Vua Thái Tôn thấy Phụng Hiểu thắng trận, gọi vào an úy[lxv] rằng:

- Trẫm nay được thừa đương cơ nghiệp của Tiên đế, và được toàn vẹn cái thân, toàn do tự sức của ngươi cả. Trẫm xem sử nhà Đường, thấy Uất trì Kính Đức cứu nạn cho vua Đường Thái Tôn, tưởng là các bày tôi đời sau không còn ai trung dũng được như Kính Đức nữa, nay ngươi khỏe mà lại trung với trẫm như thế, thì ra hơn Kính Đức ngày xưa.

Phụng Hiểu lạy tạ nói rằng:

- Bệ hạ, đức cảm đến cả trời đất, uy khắp đến cả cõi xa trong triều, ngoài nội, ai ai cũng phải tuân phép thế mà chư vương dám manh tâm làm phản, thần thánh trên dưới cũng có bụng muốn giết, cho nên mới trừ được loạn, chứ như chúng tôi thì có công gì.

Vua phong cho làm Đô thống thượng tướng quân. Đến năm Thiên cảnh thánh võ (1044), vua Thái Tôn vào đánh Xiêm Thành, sai Phụng Hiểu làm tiên phong, phá tan quân giặc, tiếng lừng lẫy đến ngoại quốc. Khi vua thành công trở về, định phong thưởng cho Phụng Hiểu nhưng Phụng Hiểu từ không nhận tước thưởng, xin đứng ở trên núi Băng Sơn, ném một thanh đao ra ngoài, hễ rơi xuống chỗ nào, thì xin đất đến đấy để lập nghiệp.

Vua ưng cho như thế. Phụng Hiểu đứng ở trên đỉnh núi, ném một thanh đao ra ngoài mười dặm, sa xuống cắm vào làng Đa Mỹ. Vua mới ban ruộng thưởng cho đến chỗ cắm đao, tính ra được hơn nghìn mẫu.

Tự đấy ruộng thưởng cho công thần gọi là ruộng Thác đao (nghĩa là cắm đao), là do sự tích ấy.

Phụng Hiểu hết lòng thờ vua, biết điều gì nói điều ấy, mà động đi đánh trận nào cũng được. Đến năm 77 tuổi mới mất. Dân làng ấy lập miếu thờ làm phúc thần, lịch triều[lxvi] có phong tặng cả.

ĐOÀN THƯỢNG

Đoàn Thượng người làng Hồng Thị, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Thời vua Huệ Tôn nhà Lý, phụng mệnh trấn thủ ở Hồng Châu.

Đoàn Thượng có sức khỏe hơn người, gân xương như sắt, mỗi khi lâm trận, chỉ một đao một ngựa xông vào đám trăm nghìn người, tung hoành vô địch.

Đến khi Lý Chiêu hoàng nhường ngôi cho vua Trần Thái Tôn, Đoàn Thượng chiếm giữ một châu, không chịu hàng theo về mới nhà Trần. Thái sư nhà Trần là Trần Thủ Độ sai sứ đến dụ hàng. Thượng nhất định không nghe. Chiêu binh tập mã, tự xưng là Đông hải vương, có ý muốn khôi phục giang sơn cho nhà Lý.

Trần Thủ Độ đem quân xuống đánh nhau luôn mấy năm không phá nổi, mới lập mẹo sai người đến giảng hòa, mà kỳ thực thì sai một đại tướng là Nguyễn Nộn đem quân đánh tập công mặt sau.

Đoàn Thượng chắc đã giảng hòa rồi, phòng bị không được cẩn thận như trước, sực nghe tin Nguyễn Nộn đến đánh, mới kéo quân ra cự địch. Đôi bên đánh nhau đang hăng, thì Thủ Độ lại cầm đại quân từ đường Văn Giang đánh đến mé trước. Quân nhà Trần hai mặt đánh dồn vào một, quân của Đoàn Thượng kinh hãi chạy tán lạc mất cả. Đoàn Thượng vội vàng quay ngựa về đánh mặt tiền quân, không ngờ bị một viên tướng nhà Trần, từ mé sau sấn lên chém một nhát vào cổ gần đứt, Đoàn Thượng ngoảnh lại, thì tướng kia sợ hãi mà chạy mất. Đoàn Thượng mới cổi dây lưng ra buộc vào cổ cho khỏi rơi đầu, rồi hầm hầm tế ngựa chạy về phía đông. Chạy đến đâu, quân nhà Trần phải dãn đường cho chạy, chớ không dám đánh.

Khi chạy đến làng An Nhân, có một cụ già áo mũ chững chạc, chắp tay đứng bên đường nói rằng:

- Tướng quân trung dũng lắm, Thượng đế đã kén ngài làm thần xứ này rồi đây! Có một cái gò bên làng cạnh kia, đó là đất hương quả của tướng quân, xin tướng quân để lòng cho.

Đoàn Thượng vâng một tiếng, rồi đến chỗ gò ấy, xuống ngựa gối đầu vào ngọn mác mà nằm, một lát thì mất, mối đùn đất lên lấp thành mồ ngay.

Dân làng thấy vậy, lập miếu tô tượng để thờ. Về sau, nước lụt vỡ đê, tượng trôi vào làng An Nhân, làng ấy lại lập một tòa miếu khác để thờ. Miếu ở cạnh bờ sông Hồng giang, mé trước ngoảnh vào con đường cái chính xứ đông bắc. Thần linh ứng lắm, kẻ qua lại mà ngạo ngược thì có tai nạn ngay. Các khách buôn thuyền qua lại cửa đền, có đồ lễ vào thì buôn bán đắt hàng. Tục truyền những khách buôn chum vại vào bán chợ Hồng, ai mà vào đền lễ thì buôn bán thông đồng chóng hết lắm mà ai không lễ, thì ế mãi không bán được, thường phải quẳng bỏ ngoài bến sông, nếu không thế thì tất lại có sự sóng gió lo lường.

Lịch triều cũng có phong tặng làm thượng đẳng thần. Miếu ấy đến giờ vẫn còn.

PHẠM NGŨ LÃO[lxvii]

Phạm Ngũ Lão là người học trò ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương (bây giờ thuộc về huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), có sức khỏe lạ thường, muôn người khôn địch.

Phạm Ngũ Lão mặt mũi khôi ngô, đủ cả văn võ tài lược. Nhà vốn chỉ có nghề làm ruộng, đến Ngũ Lão mới theo nghề học nho. Trong hai mươi tuổi đã có tính khảng khái. Trong làng có một người tên là Bùi Công Tiến đỗ Tiến sĩ ăn mừng, cả làng kéo đến mừng rỡ, chỉ Ngũ Lão không thèm đến.

Bà mẹ Ngũ Lão bảo rằng:

- Con làm thế nào cho bằng người ta thì làm. Nay người ta ăn mừng, cả làng mừng rỡ, sao con không đến mừng một chút.

Phạm Ngũ Lão thưa rằng:

- Thưa mẹ, con chưa làm nên gì để vui lòng mẹ, mà con đi mừng người ta, thì con lấy làm nhục lắm.

Ngũ Lão tính hay ngâm thơ, thường ngâm một bài rằng:

Ngọn gió non sông trải mấy thâu,

Ba quân tỳ hổ át sao Ngâu,

Công danh nếu để còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe truyện Võ hầu.

Nhà ở bên cạnh đường cái, có một khi Phạm Ngũ Lão ngồi vệ đường vót tre đan sọt, sực có Trần Hưng Đạo Vương từ trại Văn An vào kinh, quân quyền kéo đi rất đông. Quân tiền hô thấy Ngũ Lão ngồi xếp bằng tròn bên cạnh đường, quát lên bắt phải đứng dậy. Ngũ Lão cứ ngồi nghiễm nhiên, như không nghe tiếng. Quân lính cầm ngọn giáo đâm vào đùi, Ngũ Lão cũng cứ ngồi vững không động mình. Đến lúc xe Hưng Đạo Vương đến nơi, trông thấy thế lấy làm lạ, gọi đến hỏi, thì bây giờ mới biết là có quan quân đi qua, và quân lính đâm vào đùi mình.

Hưng Đạo Vương hỏi rằng:

- Nhà thầy kia ở đâu, sao ta đi qua đây mà cứ ngồi chững chàng làm vậy?

Thưa rằng:

- Tôi đang mãi nghĩ một việc cho nên không biết là ngài chảy qua đây.

Hưng Đạo Vương lấy làm kỳ, hỏi đến sự học hành, thì hỏi đâu nói đấy, nội về kinh truyện thao lược, không sót chỗ nào, ứng đối nhanh như nước chảy.

Hưng Đạo Vương mới sai lấy thuốc dấu rịt vào chỗ nhát đâm, rồi cho ngồi xe đem về kinh, dâng lên vua Thánh Tôn.

Vua thấy người có sức khỏe, lại có học thức, cho vào làm quản vệ sĩ. Các vệ sĩ không chịu, xin đấu sức với Ngũ Lão. Ngũ Lão xin vâng, nhưng xin vua cho về nhà ba tháng, để thu xếp việc nhà, rồi sẽ xin đấu sức và nhận chức nhân thể. Vua cho về, Ngũ Lão về nhà ra ngoài đồng, tìm chỗ gò cao tập nhảy, cứ cách mười trượng chạy đến nhảy vót qua gò. Tập luyện thành rồi, vào kinh đấu sức. Khi đấu quyền với các vệ sĩ thì không ai địch nổi, rồi Ngũ Lão thách cả các vệ sĩ cùng ra đấu. Các vệ sĩ xúm xít chung quanh, hàng trăm, nghìn người. Ngũ Lão tay đấm chân đá, nhảy nhót như bay, chạm phải ai phi[lxviii] chết thì què gẫy, các vệ sĩ không tài gì mà đánh lại được, bấy giờ mới chịu phục.

Vua thấy người kiêu dũng làm vậy, cho theo Hưng Đạo Vương đi đánh giặc Mông Cổ, thì đánh trận nào cũng được, lập nên công trạng rất nhiều. Hưng Đạo Vương có lòng yêu mến, gả con nuôi là Nguyên quận chúa cho.

Về sau, nước Ai Lao[lxix] đem hơn một vạn voi sang cướp đất Thanh, Nghệ, vua sai Ngũ Lão cầm quân đi đánh. Ngũ Lão sai dân chặt tre đực cứ dài độ một trượng, chồng chất vào các vệ đường. Khi Ngũ Lão kéo quân vào đánh, giặc thúc voi sấn lên, Ngũ Lão chỉ chân tay không sấn vào gặp đống tre nào thì với lấy cái đống tre chỗ ấy, đập vào chân voi. Voi bị đau gầm rống lên chạy về, giầy xéo cả quân Ai Lao. Ngũ Lão mới thúc quân đánh tràn sang, quân Ai Lao tan vỡ, phải trốn về đêm.

Vì có những công to ấy, được thiên[lxx] lên làm Điện tiền thượng tướng quân. Đến khi mất, được phong làm Thượng đẳng phúc thần, người làng Phù Ủng lập miếu thờ ngay ở chỗ nhà Ngũ Lão.

Ngũ Lão nguyên là bộ tướng của Hưng Đạo Vương, cho nên các đền thờ Hưng Đạo Vương, cũng có thờ Ngũ Lão nữa.

Tục lại truyền khi Ngũ Lão còn hàn vi, xin với mẹ đi tìm kế lập công danh, ở trong nước chưa có dịp nào, mới sang ở chăn voi cho vua nước Ai Lao. Ngũ Lão cầm một lá cờ đỏ dạy voi, hễ phất lá cờ thì voi phải quỳ xuống hết. Đến khi nghe tin có giặc Mông Cổ quấy nước Nam, mới về theo Hưng Đạo Vương đi đánh giặc. Về sau nước Ai Lao sang cướp vùng Thanh, Nghệ, vua sai Ngũ Lão đi đánh. Ngũ Lão thấy Ai Lao thúc voi xông vào trận, mới phất lá cờ đỏ, thì voi trông thấy hiệu ông ấy, lại phục cả xuống, vì thế mới phá được quân Ai Lao.

NGUYỄN XÍ

Nguyễn Xí người làng Sái Xá, huyện Chân Phúc, tỉnh Thanh. Thân phụ Nguyễn Xí gặp buổi cuối đời nhà Trần, trong nước loạn lạc, không muốn ra làm quan, tu ở chùa làng, gọi là Hòa Nam thiền sư. Mỗi đêm đến gà gáy thì thức dậy đánh chuông, đốt hương tụng kinh.

Có hàng thịt lợn ở cạnh chùa, hễ cứ nghe tiếng chuông thì thức dậy giết lợn. Một hôm, nhà hàng thịt mua lầm phải con lợn cái chửa, định để sáng mai thì làm thịt bán hàng.

Đêm hôm ấy, nhà sư nằm mơ thấy một người đàn bà đến kêu khóc rằng:

- Xin ông đêm hôm nay đừng đánh chuông vội, cứu lấy tám, chín mạng cho mẹ con tôi.

Nhà sư ngạc nhiên không biết sự gì, nhưng cũng nghe lời không đánh chuông vội. Nhà hàng thịt vì thế dậy trưa, thì con lợn cái đã đẻ ra 8 con. Nhà sư thấy vậy lấy làm kỳ, mới mua cả đàn lợn ấy thả vào trong núi.

Được vài tháng, nhà sự phải hổ bắt mất, nó cắn chết bỏ dưới sườn núi. Sáng mai, người nhà đi tìm thấy mối đùn đất lấp lên thành mồ rồi. Có người biết địa lý, xem hình thế chỗ ấy, cho là được ngôi hổ táng.

Con ông sư ấy là Nguyễn Xí, bấy giờ đã 17 tuổi, vốn có sức khỏe hơn người, tập nghề võ đã giỏi, nhưng vì nhà nghèo khó, phải ra tỉnh Thanh bán dầu kiếm ăn.

Một hôm đi qua huyện Lam Sơn, trời đã tối, xung quanh không cửa nhà nào, chỉ có một ngọn miếu thờ thần, mới vào nghỉ trong miếu ấy. Đến canh ba, phảng phất nghe có tiếng xe ngựa rầm rầm, và nghe có tiếng bảo ông thần trong miếu rằng: “Hôm nay trên thiên đình hội các bách thần định lập thiên tử nước Nam, việc ấy quan hệ to, mời ngài đi với tôi nhân thể”. Ông thần trong miếu nói rằng: “Tôi dở có quí khách dưới trần trọ đây, không sao đi được, ông có được nghe điều gì, xin về bảo cho tôi được biết”. Cuối canh tư lại nghe có tiếng về báo rằng: “Thiên đình đã định xong ngôi Hoàng đế nước Nam rồi, tức là người ở Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên họ Lê tên Lợi. Thượng đế cho đến giờ thân, ngày thân, tháng thân thì khởi binh, mười năm mới yên xong thiên hạ”.

Nguyễn Xí nghe rõ ràng các câu ấy, gà gáy thức dậy, tìm đến làng Lam Sơn, hỏi thăm và nhà Lê Lợi, kể rõ lại những việc nghe thấy chuyện như thế.

Lê Lợi bấy giờ đã có 300 thủ hạ, sắp sửa muốn ra dẹp loạn, nghe thấy nói, lập tức khởi binh ngay tháng bảy năm ấy.

Nguyễn Xí theo giúp Lê Lợi đánh nhau với quân nhà Minh, xông pha trong đám mũi tên hòn đạn, đánh đến đâu quân Tàu tan ra đến đấy. Trong 10 năm trời, lập lên rất nhiều công trạng. Đến khi thiên hạ bình định, Lê Thái Tổ cho Nguyễn Xí là sáng nghiệp đệ nhất công thần, và phong làm Nguyễn quốc công, cho quốc tính gọi là họ Lê.

Nguyễn Xí làm quan trải ba triều: Thái Tổ, Thái Tôn, Nhân Tôn, khi có giặc giã thì đi dẹp, khi thường thì lại vào túc vệ trong cung cấm. Khi vua Nhân Tôn bị Nghi Dân cướp ngôi (con cả vua Thái Tôn, phải bỏ không được lập), Nguyễn Xí đem binh dẹp loạn, giết được bọn đồ đảng của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban rồi bỏ Nghi Dân đi đón Bình nguyên vương lập lên, tức vua Thánh Tôn. Nguyễn Xí vì có công ấy lại được tiến lên làm chức Thái úy, Cương quốc công.

Bấy giờ Nguyễn Xí có 12 con, cũng được phong tước làm quan tại triều, quyền thế hách dịch nhất thời ấy. Vua thấy lồng lẫy quá, sai đào con sông Cấm giang ở làng Sái Xá, để triệt long mạch làng ấy, thân long chảy ra huyết ba ngày.

Một hôm, năm con làm quan trung úy, cùng chết một ngày, từ bấy giờ con cháu sa sút.

PHẠM TỬ NGHI

Tử Nghi người làng Vĩnh Niệm, huyện An Dương, tỉnh Hải Dương, sức khỏe như thần.

Tử Nghi thường đắp một con đường dài ở trên mặt đê, đôi đầu đắp ụ cao 5 thước, rồi vác gậy chạy lên mặt đê, cứ đến chỗ ụ cao thì đánh một cái, ụ lại sạt xuống như đất phẳng.

Khi sau đến kinh thành Thăng Long, trông thấy hàng trăm người lính đang kéo thuyền rồng ở trên mặt đất xuống sông, mà kéo không nổi.

Tử Nghi cười nói rằng:

- Khéo những đồ bị thịt kia! Có một cái thuyền như thế xúm xít vào kéo mà không nổi, thì làm trò gì được?

Chúng tức giận, kẻ nghiến răng, người trợn mắt, toan xúm vào đánh, thì Tử Nghi lại nói rằng:

- Vậy thì các anh để đấy, chỉ một mình ta kéo cho mà xem.

Chúng thấy nói vậy, bỏ cả đi ra, bắt Tử Nghi phải kéo thuyền, nếu kéo không xong thì sẽ hay. Tử Nghi vén tay áo, dùng hết sức bình nhật, chỉ một tay lôi tuột chiếc thuyền rống xuống sông. Chúng ai nấy lắc đầu le lưỡi, chịu ông ta là có sức khỏe gấp nghìn người.

Bấy giờ nhà Mạc mới lên, nghe có người hùng dũng làm vậy cử làm đại tướng, cho lên trấn thủ mặt Thượng du. Tử Nghi ở trấn vài năm, dẹp tan đám giặc cỏ, có tiếng lừng lẫy đến cả Bắc triều[lxxi]. Về sau nhân dẹp giặc, phá lây đến các tỉnh ven Tàu Tàu đưa hịch sang trách đến triều đình nước Nam. Tử Nghi đến dinh quan Tổng đốc Quảng Đông, xin chịu tội để cho yên tâm vua nước mình.

Người Tàu đem Tử Nghi ra hành tội, rồi bỏ đầu lâu và thây vào một cái hòm, che một cái lọng, thả xuống sông cho trôi về nước Nam. Trôi tự Nam Quan về mãi đến giang phận làng Vĩnh Niệm, thì đứng lại không trôi nữa, rồi đêm báo mộng cho dân làng ấy phải ra vớt về mai táng, và phải lập đền phụng tự.

Dân làng sáng mai ra vớt, lập miếu thờ ngay bên cạnh sông, từ đấy linh ứng lắm. Về sau, hiển linh bảo các làng ở ven sông, cho nên tự Nam Quan về mãi đến Hải Dương, Sơn Nam nội chỗ nào có bến, là cũng phải lập miếu thờ cả.

Lịch triều phong tặng làm Linh ứng đại vương thần.

ĐINH VĂN TẢ

Về đời Lê trung hưng, ở làng Hàm Giang, tỉnh Hải Dương, có người tên là Đinh Văn Tả, sức vóc mạnh mẽ, tính khí hung hăng. Lúc còn nhỏ, chơi bời với lũ côn quang, chúng bầu lên làm đàn anh cả.

Cạnh làng có một con sông to rộng hơn một dặm, ngày ngày ra tắm, bơi vòng tự bên này sang bên kia, chơi bời luyện tập.

Một hôm, họp bằng bối[lxxii] uống rượu bên cạnh bờ sông, nghe bên kia sông, có tiếng chiêng trống tế thần. Anh em đố nhau lội được qua sông sang ăn trộm cái chiêng của làng kia đem về.

Đinh Văn Tả nói:

- Khó gì việc ấy mà phải đố.

Bấy giờ đang đêm, Văn Tả lập tức lội xuống sông, vòng sang bên kia, lẻn vào đình, ăn trộm được cái chiêng đem ra, lại lội xuống bơi về. Khi ra đến giữa dòng sông, khua chiêng vang cả lên làng bên kia nghe tiếng, mới biết là mất trộm, tìm thuyền đuổi theo thì không kịp.

Về sau, nhân có tội phải giam trong ngục Đông Môn. Khi ấy, triều đình đương có việc dụng binh, chúa Trịnh sai các tướng võ tập bắn ở lầu Ngũ Long. Văn Tả và tên lính canh ngục đứng xem thấy không mấy người bắn trúng bia, cười mà nói rằng:

- Bia rành rành thế kia, mà bắn không trúng, sao mà họ hèn làm vậy?

Các tướng đứng bắn, nghe tiếng giận lắm, đưa súng cho Văn Tả và bảo rằng:

- Anh nói khoác làm gì thế, súng đây, anh thử bắn đi này!

Văn Tả không thèm cầm súng nhỏ, xin mượn khẩu súng to, cắp lên trên mang tai, bắn ra ba phát, vỡ ba cái đích. Các người kia ai cũng chịu là tài rồi lại sai bắn thử lần nữa xem làm sao, thì bắn phát nào tin phát ấy, mười phát đậu chục. Việc ấy lên đến tai chúa Trịnh, mới tha tội, cho theo đi đánh giặc.

Bấy giờ chúa Trịnh đang chống nhau với Nguyễn ở trong Nam hà. Một bữa quân Bắc đóng ở trên núi, quân Nam đột nhiên đến vây đánh, quân Bắc bị thua tan chạy mất cả, chỉ còn một mình Đinh Văn Tả phục trong bụi rậm, chờ khi quân Nam đuổi theo, ở trong bụi bắn ra, quân Nam tưởng có nhiều quân mai phục phải lui về quân Bắc thừa thế quay lại đánh, quân Nam phải chạy. Tự bấy giờ nổi tiếng. Về sau, lại lập được nhiều công chiến trận, chúa Trịnh phong cho làm quận công. Văn Tả nộp trả bằng sắc không nhận, chỉ xin rút trong sổ án từ ra mà thôi, nhưng chúa Trịnh cũng cứ phong cho.

Đến thời vua Hi Tôn, dư đảng nhà Mạc là Mạc Kính Vũ, vẫn còn chiếm giữ trên xứ Cao Bình. Vua sai Văn Tả thống lĩnh đại binh đi đánh, phá vỡ quân nhà Mạc. Kính Vũ phải chạy sang Long Châu, mới trừ hết được đảng nhà Mạc. Tự đấy làm quan đến cực phẩm hàng võ.

Đến năm 80 tuổi phải bệnh nặng, Chúa Trịnh thân đến tận nhà hỏi thăm, hỏi rằng:

- Như ngươi thì trong bụng còn muốn ao ước điều gì nữa không?

Thưa rằng:

- Tôi nhờ ơn nhà chúa, làm vinh hiển đến thế này mà lại được thọ đến 80 tuổi thì trong bụng cũng đã mãn nguyện rồi nhưng chỉ còn ao ước một chút, giá thử đang lúc tôi chưa chết, mà chúa phong cho tôi làm phúc thần, thì tôi nhắm mắt đi, không còn điều gì hối hận nữa.

Chúa Trịnh lập tức sai người thảo sắc, phong ngay tại trước chỗ giường nằm. Văn Tả tạ ơn chúa rồi mất.

Con cháu nhà ấy, về sau ai cũng có tài làm tướng kế thế[lxxiii] 18 đời được phong quận công, đến mãi về đời Đinh Tích Nhưỡng về cuối nhà Lê, vẫn còn lừng lẫy. Tục ngữ có câu: “Đánh giặc họ Đinh” tức là chi họ ấy.

VÕ TÁNH

Võ Tánh tổ tiên thuở trước là người Phúc An, thuộc tỉnh Biên Hòa, sau dời đến Bình Dương.

Tánh là người khảng khái, trí dũng hơn người, nhà giàu, không chịu thần phục Tây Sơn mới xin với mẹ bỏ của ra chiêu dụ hào kiệt, khởi nghĩa binh ở Phù Viên (thuộc Gia Định) rồi kéo đến Định Tường chiếm giữ Khổng Tước Nguyên (thuộc Tân Hòa), tụ đồ đảng đến hàng vạn người, hiệu là đạo quân Kiến Hòa, tự xưng làm Tổng nhung, hễ quân giặc đi qua đất ấy, thì đánh giết sạch. Quân giặc thường bảo nhau rằng: “Gia Định tam hùng[lxxiv], Võ Tánh là một, chớ có phạm vào mà chết”.

Năm Mậu thân, Tánh đem cả bộ thuộc đến bái yết đức Thế Tổ[lxxv] ở dưới hành tại[lxxvi]. Đức Thế Tổ cả mừng, cho Tánh làm Tiền phong doanh khâm sai Tổng nhung chưởng cơ rồi lại gả em là Trưởng công chúa Ngọc Du (con gái đức Hưng Tổ, em đức Thế Tổ) cho.

Khi ấy tướng Tây Sơn là Thái bảo Phạm Văn Tham giữ thành Sài Gòn, Tánh đem quân vây đánh, Tham cùng quẫn xin hàng, dẹp yên được vùng Gia Định.

Năm Quí sửu, Tánh được thăng làm Khâm sai chưởng Hậu quân doanh Bình sơn tham thặng tướng quân, theo đức Thế Tổ ra đánh thu phục Phú An.

Năm Giáp dần, Tánh phụng mệnh trấn thủ thành Diên Khánh (bây giờ là Khánh Hòa). Trần Quang Diệu (tướng Tây Sơn) đem hết cả quân vào vây, Tánh kiên thành cố thủ, khi ấy trong thành thiếu lương, quân sĩ rất kham khổ, Tánh lấy lời trung nghĩa khích khuyến, tướng sĩ đều cố sức đánh, giặc không thể nào phá được. Mùa hạ năm Ất mão, đức Thế Tổ đại cử quân thủy, bộ ra cứu viện. Tánh nghe tin có viện binh đến, thân đốc tướng sĩ đương đêm mở cửa thành ra đánh, quân giặc tan chạy. Đức Thế Tổ úy lạo khen Tánh rằng: “Tên Diệu là kềnh địch mà ngươi hãy giữ vững được thành này, có gặp gió to mới biết được cỏ cứng thật!”. Bèn phong cho Tánh tước Quận công.

Tánh tuổi trẻ, mà lại là bậc thân quí, lập được nhiều công chiến trận, nên có kiêu căng. Tiền quân Tôn Thất Hội thường chê Tánh là người thiển hiệp[lxxvii] và bảo rằng: “Cậy mình quí mà không xét đến kẻ sĩ, là lỗi quan Phiêu Kỵ họ Hoắc[lxxviii], nay ngươi có bớt kiêu đi, thì mới giữ trọn được tiếng hay”. Tánh nghe lời cảm tạ, từ đấy nén bớt kiêu khí, đều được lòng tướng sĩ.

Năm Kỷ mùi, Tánh hộ giá đức Thế Tổ ra thân chinh, hạ được thành Qui Nhơn. Đức Thế Tổ vào thành úy lạo, đổi tên là thành Bình Định, lưu Tánh cùng Lễ bộ Ngô Tòng Châu ở lại trấn thủ.

Mùa đông năm ấy, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng lại đem hai đạo quân vào vây Bình Định. Tánh nghe biết thế giặc đương mạnh, chửa có thể đánh được bèn thu quân giữ thành. Đức Thế Tổ nghe tin báo, đại cử thủy, bộ chư quân ra cứu viện.

Tánh kiên thành cố thủ, tùy phương chống chế, quân lịnh nghiêm minh, khích lệ tướng sĩ đều liều chết mà đánh, lớn nhỏ cả thảy hơn vài mươi trận, không thua trận nào.

Hoặc có kẻ khuyên Tánh vượt vòng vây mà lén ra. Tánh không nghe, bảo rằng: “Ta phụng mệnh giữ thành này, thì ta nên thề cùng với thành cùng sống thác. Nếu bỏ thành mà lẩn trốn lấy một mình, thì còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa?”

Khi ấy quan quân đến cứu viện đã non hai năm trời, đánh mãi không tài nào giải vây được. Đức Thế Tổ sai người lặn nước từ cửa bể lẻn vào, bảo Tánh bỏ thành mà ra hội với quan quân, Tánh nhất định xin cố thủ, sai người cầm tờ mật biểu ra tâu rằng: “Nay quân giặc tụ vây cả ở thành này, thì ngoài Phú Xuân hẳn không hư[lxxix], xin đem quân thừa hư ra đánh lấy Phú Xuân, chẳng khác gì đổi ngôi lấy vàng dẫu chết một mạng tôi, mà đổi lấy được Phú Xuân, cũng phải.”

Đức Thế Tổ được tờ mật biểu, ngài mới quyết ý đem quân do đường thủy kéo ra. Đêm hôm ấy đốt lửa ở núi Độc Sơn làm hiệu, Tánh thấy hỏa hiệu, lại mở cửa thành ra đánh, giết được vài tên tướng giặc.

Khi ấy trong thành hết cả lương thực, quân sĩ phải giết voi, ngựa mà ăn, mà cũng không ai có lòng phản bội gì cả. Tánh sợ rằng thành hãm, thì tướng sĩ chết hại nhiều, bèn đưa thư ra bảo Diệu rằng: “Phận sự ta làm chủ tướng, thì điều liều chết ở dưới cờ. Còn như các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại”. Lạo bảo các tướng rằng: “Ta uống thuốc độc, nhảy vào lửa, đàng nào cũng chết. Nhưng ta không muốn cho giặc trông thấy mặt, ta đành chết vào lửa mà thôi”. Mới sai quân lấy củi khô chất đầy ở dưới lầu Bát giác, và để thuốc súng vào giữa.

Một hôm buổi sớm, Hiệp trấn Ngô Tòng Châu sang hỏi Tánh xem định kế gì? Tánh trỏ lầu Bát giác mà rằng: “Kế tôi đành chịu thác ở đó mà thôi!” Lại bảo Tòng Châu rằng: “Tôi là võ tướng không lẽ cùng sống với giặc được ông là văn quan giặc nó không nỡ giết nào, nên liệu mà tự toàn lấy mình”.

Tòng Châu cười mà nói rằng: “Dù văn, dù võ, ai cũng một lòng trung ái cả, chớ có phân biệt chi? Tướng quân hay liều mình với nước, tôi lại không hay tận trung với vua hay sao?”. Nói rồi lui về dinh, uống thuốc độc mà chết.

Tánh than rằng: “Ông này lại hơn ta một chước!”, liền thân đến liệm táng cho Tòng Châu tử tế. Cách hai hôm sau, Tánh mặc triều phục lên lầu hội các tướng bảo rằng: “Ta nhờ có các tướng đồng tâm mới giữ được thành mà chống nhau với giặc. Nhưng nay lương cạn, lực cùng, giữ cũng không được nữa, thôi thì ta liều mình thác, chớ không làm khổ tướng sĩ mãi nữa.” Các tướng nghe nói ai cũng thương xót, đứng chung quanh lầu mà khóc. Tánh khoa tay bảo các tướng lui ra, rồi sai Phó tướng Nguyễn Văn Biện châm lửa. Biện cũng khóc mà chạy. Tánh bấy giờ đang hút thuốc lá, lấy tàn ném xuống đống thuốc súng, lửa tức thì bốc lên mà thác. Thống binh Nguyễn Tấn Huyện ở ngoài chạy vào, cũng nhảy vào lửa mà chết theo, hôm ấy là ngày 27 tháng 5 năm Tân dậu.

Diệu đem quân vào thành, trông thấy cũng rỏ nước mắt, sai làm lễ niệm táng tử tế. Còn các tướng sĩ trong thành, không giết hại người nào cả. Nhưng bọn tướng sĩ sau đều lẻn về, không có một người nào chịu ở theo giặc.

Đức Thế Tổ nghe tin Võ Tánh, Ngô Tòng Châu tử tiết, thương khóc than rằng: “Toàn tiết như thế dẫu Trương Tuấn, Hứa Viễn ngày xưa, cũng không hơn được!”

Gia Long nguyên niên[lxxx], sai lập đền thờ ở nền cũ lầu Bát giác, truy tặng Tánh làm Dực vận công thần Thái úy Quốc công Châu làm Tán trị công thần Thái tử Thái sư Quận công Huyện được tặng làm Chưởng cơ. Năm Minh Mệnh thứ 12, truy phong Tánh làm Hoài Quốc công Châu làm Ninh hòa Quận công, đều được phối hưởng ở nhà Thái miếu.

NGUYỄN VĂN THÀNH

Nguyễn Văn Thành trạng mạo khôi ngô, tính thâm trầm, cương nghị. Chăm đọc sách, giỏi võ nghệ. Tổ tiên trước ở Thừa Thiên, cha là Hiền dời vào ở Gia Định.

Đời vua Duệ Tôn triều Nguyễn, Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc khởi binh cướp Bình Thuận. Hiền mộ quân hương dũng theo đi đánh giặc, khi ấy Thành cũng ứng mộ theo cha, đóng quân ở Cầu Giang. Tống Phúc Hợp sai Hiền đem vài nghìn quân đi tải lương, Thành cũng theo đi. Lúc đang đi nửa đường, quân lính già nửa mắc đội thóc, không kịp phòng bị thì có quân giặc đổ ra đánh chẹn ngang đường. Hiền thấy quân giặc kéo ập đến, liền vẫy Thành lui tránh đi. Thành lẻn ra đàng sau trận, sai những quân đội thóc, giơ sào lên làm giáo, treo áo lên làm cờ, vòng ra đàng trên Sa Đỗng, vừa đánh trống vừa reo mà kéo lên. Giặc ngỡ là có viện binh kéo đến, phải tháo lui dần. Quan quân thừa cơ lại đánh được toàn thắng. Phúc Hợp khen Thành còn trẻ tuổi mà có trí khôn, thưởng cho 10 lạng bạc, và một cặp áo sa.

Đến sau, Hiền bị tử trận. Đức Duệ Tôn cho Thành làm cai đội, Thành đi chiêu tập được hơn 800 quân tráng dũng, theo Đỗ Thành Nhân thu phục được Sài Gòn.

Năm Ất tị, Thành theo đức Thế Tổ sang Xiêm ở thành Vọng Các, lại giúp Xiêm đánh phá được Diến Điện, khi ấy vua Xiêm muốn giúp binh, Đức Thế Tổ họp các tướng lại bàn. Thành tâu rằng: “Quân Xiêm tàn ngược, không nên nhờ họ giúp nữa nếu nhờ binh lực của họ mà được thành sự, rồi tất có lo về sau. Không gì bằng hãy tĩnh để đợi thời”.

Năm Đinh mùi, Thành phụng mệnh đi đón Hà Hỉ Văn, bị bạt phong dạt vào Hà Tiên, tuyệt lương. Thành giả làm thuyền giặc đi tuần, vào cửa bể cướp lương. Khi về đến nơi hành tại ở Cù lao Cổ Cốt, Thế Tổ biết chuyện cướp lương quở trách Thành, truyền tống giam, sau cho tùng chinh[lxxxi]. Khi quan quân thất lợi trận đánh ở Mỹ Tho, có kẻ xui Thành trốn về làng mà ở. Thành bảo rằng: “Vua, tôi nghĩa cả, dù sống, chết cũng phải giữ lấy còn như sự thành, bại là tại trời, ta liệu trước sao được. Vả lại nhân phải khiển trách mà đi, nhân lúc bại trận mà trốn, đó là kẻ tiểu nhân phản phúc, ta không thèm làm”. Bèn cùng với lũ Hỉ Văn 17 người vượt bể đi theo đức Thế Tổ. Một hôm gặp bão to gẫy cả cột buồm, bạt phong dạt vào cửa Bản Phố. Thành chạy vào trong làng, mượn được thuyền, nhờ được lương, lại vượt bể vào Long Xuyên, sau nghe tin đức Thế Tổ đóng ở Ba Lai, bèn theo đến nơi xin đi chiêu tập quân nghĩa dũng để đánh giặc.

Năm Quí sửu, đức Thế Tổ ra thân chinh Qui Nhơn cho Thành làm Khâm sai Bình Sơn Tiền tướng quân đem bộ binh đi trước, đến đâu giặc đều tan vỡ cả. Khi ấy nghe tin Thái úy giặc là Nguyễn Văn Hưng đem quân tự Phú Xuân vào cứu viện Qui Nhơn, Thành bèn đem quân đến Thạch Tân án ngữ, năm trận đánh, quân giặc đều phải lui cả. Thành lại do đường bộ kéo đến đóng ở Phú An. Bấy giờ ai cũng sợ rằng quân giặc đuổi theo, Thành nói rằng: “Trong Qui Nhơn, ngoài Thuận Hóa, dẫu là thân thích, mà thực là cừu thù, chẳng qua mượn tiếng vào cứu viện, mà kỳ thực là định nuốt nhau. Nhạc còn tự cứu không xong nữa là đi đuổi theo người”.

Sau Nhạc quả nhiên phải lũ Hưng bức tử, lời Thành nói không sai.

Năm Đinh tị, Thành phụng mệnh trấn thủ Diên Khánh, khi ấy có bọn giặc khách tàu ô thường làm trở ngại ngoài bể. Thành dụng mẹo bắt được, đường bể mới yên.

Năm Kỷ mùi, Võ Tánh trấn thủ Qui Nhơn, bị quân giặc vây, Thành phụng mệnh điều khiển các đạo bộ binh ra cứu viện, phá tan các đồn giặc. Quân giặc phải lui giữ Chủ Sơn, Thành đánh mãi không vỡ, sau Thành dò được con đường tây nam, có thể đánh tập hậu được, bèn vẽ hình thế dâng biểu xin thêm quân.

Đức Thế Tổ sai Tống Viết Phúc, Lê Văn Duyệt đem thêm quân đến Thị Dã, đều theo tiết chế Thành. Thành bèn lưu Duyệt đóng quân án ngữ ở Thị Dã, mà Thành thì đem quân qua núi Bột Khê, hơn hai trăm dặm đường, cứ rấn cơn mưa mà đi, vòng qua Đăng Trại đến sau lưng đồn giặc phóng hỏa đốt trại. Mặt trước Lê Văn Duyệt thừa thắng đánh ập vào. Quân giặc tan chạy.

Trận này, Thành và Duyệt cùng làm đại tướng, cưỡi voi cầm cờ, trỏ bảo các tướng. Thành tính hay rượu, lúc sắp vào trận, cầm hồ rót uống, lại rót một chén đưa cho Duyệt, bảo rằng: “Uống chén này lại càng hăng hái thêm lên”. Duyệt cười mà rằng: “Có nhát thì mới phải mượn rượu, chớ như trong con mắt tôi chẳng cho quân giặc vào đâu, cần gì phải mượn rượu”. Thành có ý thẹn, bởi thế căm giận Duyệt.

Khi ấy, Thế Tổ sắp khỏi trận hỏa công ở cửa bể Thị Nại, bèn mật báo Thành đem bộ binh đêm đánh chận giặc, để cho quân giặc mải chống giữ, thì mặt quân thủy đánh xông vào. Võ Văn Dũng phải bỏ thủy đồn mà chạy.

Khi Thế Tổ đem thủy quân ra đánh Phú Xuân, lưu Thành đóng quân ở Vân Sơn, để chống nhau với giặc. Lại sai đem ấn sắc đến nơi quân thứ phong cho Thành tước Quận công.

Thành cùng Duyệt hội quân hai mặt đánh thành Bình Định. Diệu, Dũng hết lương ăn, đương đêm bỏ thành lẻn qua đường rừng trốn chạy. Thành chiêu hàng dư đảng được 3.000 người, phụng mệnh ở lại trấn thủ.

Thành học sách vở thông thái, am hiểu chính thể, trong hàng chư tướng, đức Thế Tổ trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn, việc nhỏ, thường hỏi đến Thành để quyết định.

Tháng bảy năm Nhâm tuất đức Thế Tổ định xong Bắc thành, triệu Thành cho làm Tổng trấn, cả thảy 11 trấn đều thuộc về cả.

Năm Gia Long thứ bảy, Bắc thành bốn trấn nổi giặc, giả danh tôn Lê. Thành làm khúc hát “Điểm mê” để hiểu dụ. Dân gian có người làm khúc “Tố khuất”, đổ tội quan lại nhũng nhiễu, cho nên nổi giặc. Thành sức các địa phương quan đi hiểu dụ khắp mọi nơi, và sai các tướng tiến tiễu, đều dẹp yên cả.

Năm thứ mười, Thành phụng mệnh sung chức Tổng tài sửa lại luật lệ, định thành 20 quyển, 398 điều, tâu xin in cả để thi hành.

Năm thứ mười ba, gặp tang đức Thừa thiên hoàng hậu (sinh ra ông hoàng tử Cảnh), đức Thế Tổ muốn để ông hoàng tử đệ tứ (đức Minh Mệnh) làm thừa tự, vào chủ tế. Thành ngại rằng lòng văn tế khó xưng hô, đức Thế Tổ bảo rằng: “Con phụng mệnh cha, để mà tế mẹ danh chính ngôn thuận, can gì mà không nên”. Nhưng Thành vẫn có ý bất mãn. Sau có khi đương buổi triều, đức Thế Tổ hỏi Thành rằng: “Nay hoàng tôn Đán (con ông hoàng tử Cảnh) còn nhỏ, trong hàng các con, nên lập ai là phải?”. Thành thưa rằng: “Đích tôn thừa trọng mới là chính lễ. Nay bệ hạ muốn chọn người khác, biết con chẳng ai bằng cha, chúng tôi không dám dự đến việc đó”.

Từ đấy Thành vào triều kiến, thường tâu xin lập ngôi chừ nhị[lxxxii], đức Thế Tổ nín lặng. Thành lại càng nghi sợ.

Con Thành là Thuyên đỗ cử nhân khoa Quí dậu, hay làm văn thơ, giao thông tân khách, nghe thấy Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Đức Nhuận là người Thanh Hóa, hay chữ có tiếng, mới làm một bài thơ sai tên môn hạ Nguyễn Trương Hiệu cầm ra mời vào chơi. Hiệu đem bài thơ ấy đưa cho Hình bộ Thiêm sự Nguyễn Hựu Nghi. Nghi vốn oán Thành, xui Hiệu cầm bài thơ ấy mách Lê Văn Duyệt. Duyệt với Thành hai người vốn không hòa với nhau, mới cầm bài thơ vào triều mật tâu: “Thuyên làm thơ có ý bội nghịch[lxxxiii]”. Đức Thế Tổ cũng không hỏi chi. Sau Hiệu cứ giữ bài thơ ấy làm chứng, đón Thành đi chầu về, nắm áo đòi tiền hối lộ. Thành bất đắc dĩ phải bắt Hiệu và Thuyên tống ngục, liền vào chầu tâu vua, đức Thế Tổ cho là chứng cớ chưa rõ, tha tội cho Thuyên, mà Thành vẫn tại chức như cũ.

Sau có kẻ hạch Thành bất pháp[lxxxiv]. Lễ bộ bác Thành không được dự tế Nam giao. Đức Thế Tổ lại sai Lê Văn Duyệt xét lại án ngươi Thuyên. Thuyên phải thú phục. Thành sợ hãi xin chịu tội. Quần thần đều xin đem Thành tống ngục. Đức Thế Tổ nói rằng: “Thành dẫu có tội, nhưng cứ lễ đãi kẻ đại thần, phải nên xử một cách riêng”. Bèn sai thu cả ấn sắc của Thành, cho về ở nhà. Quần thần lại tâu: “Cha con Thành, cứ phép nên xử tử”. Gặp khi ấy ngoài Bắc thành kết án Lê Duy Hoán mưu phản, đệ vào kinh để Hình bộ xét lại. Duy Hoán lại chiêu xưng là tự Thuyên xui làm phản. Đình thần xin bắt Thành và cả các con giam ở nhà Thị trung quân xá. Các đình thần họp lại tra hỏi Thành có làm phản không? Thành thưa rằng: Không. Khi Thành trở ra, bảo quan Thống chế Hoàng Công Lý rằng: “Thế là thành án rồi, vua bắt tội chết, tôi không chết, không phải là trung thần”. Rồi liền uống thuốc độc mà chết, thọ 60 tuổi. Khi ấy có tên lính thư lại nhặt được tờ biểu trần tình của Thành để lại, Hoàng Công Lý đem dâng lên, trong tờ biểu có câu rằng: “Sớm rèn tối luyện, kết thành tội cực ác cho cha con tôi, không còn kêu oan vào đâu được nữa, chỉ có chết mà thôi”. Đức Thế Tổ xem tờ biểu, thương tình sa hai hàng lụy, rồi phán Lễ bộ xuất tiền kho làm ma tử tế.

Thành có tài lược kiêm cả văn, võ, lâm trận dùng binh, định mưu trước rồi mới đánh, cho nên ít khi thua, huân lao rất to. Còn như mưu mô việc miếu đường[lxxxv], Thành điều trần được nhiều việc, đều thứ đệ[lxxxvi] thi hành cả, thực là có mưu xa kinh lý việc nước.

Năm Minh Mệnh thứ mười bốn, nghịch Ngôi khởi loạn ở thành Phiên An, vì có tên Hàm (con Thành) tùng ngụy[lxxxvii], xuống chiếu bắt cả lũ con Thành giết sạch. Đến năm Tự Đức mới lại được truy phục chức tước.

LÊ VĂN DUYỆT

Lê Văn Duyệt tổ tích nguyên người Quảng Nghĩa, cha là Toại, thiên cư vào ở Định Tường, sinh được 4 trai, Duyệt là con trưởng. Khi sinh ra vốn người ái nữ, hình thể ngắn ngủi, nhưng có tài tinh nhanh, sức khỏe mạnh. Khi 14, 15 tuổi, thường than rằng: “Sinh ở đời loạn, mà không hay kéo cờ giống trống làm đại tướng để lưu công danh ở sử sách, thì không phải là tài trai”.

Năm Canh tí, đức Thế Tổ lên ngôi vua tại Gia Định, Duyệt mới 17 tuổi, được sung vào làm Thái giám nội dinh, sau được thăng làm cai cơ, quản hai đội quân thuộc nội, theo hầu đức Thế Tổ sang Xiêm La.

Năm Đinh mùi, đức Thế Tổ về thu phục Gia Định, Duyệt thường đi theo chiến trận, cùng chư tướng bàn luận việc binh, đức Thế Tổ thấy vậy lấy làm trọng, thung dung hỏi rằng: “Ngươi cũng biết việc binh à?”. Duyệt thưa rằng: “Biết”. Đức Thế Tổ nói: “Binh cơ là việc lớn, ngươi sao nói khinh dị làm vậy?”. Duyệt thưa: “Sơn tặc là quân vô đạo không bao lâu nữa cũng tự diệt mà thôi. Nay ta lấy người nhân mà đánh kẻ bạo, thế như chẻ tre, tôi không cho gì làm khó cả”.

Nhân xin mộ binh theo về cánh Tả quân, rồi phụng mệnh ra đánh Qui Nhơn, được thăng làm thuộc nội vệ úy, theo về quân Thần sách.

Năm Kỷ mùi, đức Thế Tổ sai Duyệt và Tống Viết Phúc đem quân ra án ngữ Bình Đề. Khi ấy đức Thế Tổ nghe tin có mấy vạn quân Tây Sơn kéo vào đánh, ngài sai Trung sứ ra hỏi tình trạng, Duyệt cùng Viết Phúc tâu rằng: “Có hai chúng tôi ở đây, chẳng lo sợ gì giặc.” Lại trỏ núi trước mặt nói rằng: “Đây là chốn hai chúng tôi cùng liều sống thác với giặc đó.” Trận ấy quả nhiên thu phục được Qui Nhơn.

Năm sau, tướng Tây Sơn lại vào vây Qui Nhơn, quan quân ra cứu viện chỉ lênh đênh ngoài bể, không đánh vào được cửa bể Thị Nại, đức Thế Tổ muốn dùng chước hỏa công, bèn sai Duyệt cùng Võ Di Nguy đem thủy quân xông vào đánh, quân giặc ở trên đồn bắn xuống như mưa, Di Nguy bị đạn ngã lăn xuống nước. Duyệt cũng không đoái lại nhìn chi, chỉ gia sức xông vào mà đánh. Đức Thế Tổ thấy tướng sĩ chết hại nhiều, ba lần cho tên tiểu sai truyền dụ bảo Duyệt tạm lui quân. Duyệt nhất định xin liều chết mà đánh, bảo tên tiểu sai rằng: “Tôi xin cứ tiến vào, chớ không lui”. Liền thúc quân xông vào cửa bể, thuận gió tung lửa ra đốt hết thuyền giặc. Trận này ở sử cho là một trận võ công đệ nhất, khi ấy là 19 tháng giêng năm Tân dậu.

Bấy giờ các tướng khuyên đức Thế Tổ đem quân ra đánh úp Phú Xuân, nhưng ngài còn dùng dằng chửa quyết, Duyệt tâu rằng: “Việc binh quí hồ thần tốc, mưu mô cốt phải quả quyết. Nay đóng quân mãi ở đây, thời mỏi mệt mà vô công tiến ra lấy được Phú Xuân, thời thành Bình Định này không phải đánh mà tức khắc giải vây đó là một chước đánh cờ thí xe vậy”. Đức Thế Tổ nghe lời, quả nhiên thu phục được Phú Xuân.

Năm Nhâm tuất, Gia Long nguyên niên, Duyệt được thăng làm Khâm sai chưởng Tả quân doanh Bình sơn tướng quân, tước quận công, cùng Lê Chất đem binh bộ đi tiên phong, dẹp yên Bắc hà.

Khi ấy có vua Chân Lạp là Nặc Chân phải Xiêm La đánh đuổi, chạy sang Gia Định. Đức Thế Tổ cho Duyệt vào làm Tổng trấn Gia Định, để điều đình xử trí việc Xiêm, Lạp, và đưa Nặc Chân về nước. Duyệt tâu xin đắp thành Nam Vang (Pnôm Pênh), thành Lư Yêm để lưu quân bảo hộ Chân Lạp.

Trước kia Duyệt vốn là tì tướng, thường phải theo tiết chế Nguyễn Văn Thành. Lúc lâm trận, tính Thành hay trì trọng[lxxxviii] mà Duyệt thì quả cảm hăng hái, thường lập được công to, uy danh lừng lẫy cũng bằng Thành. Nhưng Thành ghét Duyệt là người quyến giới, bởi thế hai người không hòa với nhau.

Khi ấy có người Thanh Hóa là Nguyễn Hựu Nghi trước làm môn khanh Nguyễn Văn Thành, vì phải quở trách, trốn sang làm môn hạ Duyệt. Nghi lại sai tên Nguyễn Trương Hiệu sang theo hầu Thuyên là con Thành, để rình xem Thuyên làm những điều gì. Sau Hiệu lấy được một bài thơ đem đưa cho Nghi. Nghi nói với Duyệt rằng: “Con Thành là Thuyên làm thơ chiêu dụ người đồng quận, lời rất bội nghịch”. Duyệt tin lời Nghi, mật đem bài thơ ấy tâu vua, việc án Thuyên gây ra từ đó.

Năm Minh Mệnh nguyên niên, Duyệt lại vào trấn thủ Gia Định, dẹp yên giặc sư Kế ở Chân Lạp.

Năm Minh Mệnh thứ 13, Duyệt thấy ngoài Bắc thành chia thành tỉnh, bãi chức Tổng trấn chỉ duy thành Gia Định còn có Duyệt cho nên chưa bãi. Duyệt nghĩ mình già yếu, dâng sớ xin từ chức, vua không cho.

Ngày 30 tháng 7 năm ấy (1832), Duyệt mất, thọ 69 tuổi. Duyệt làm việc hay tự chuyên, dụng hình hay quá lạm. Nhưng một lòng báo quốc, phấn chấn chẳng nghĩ chi đến mình, vậy nên được lòng kẻ tướng sĩ, đem quân đi đánh, không thua trận nào.

Thủy chung bốn lần đi dẹp giặc mán Vách đá ở Quảng Nghĩa, quân mán rợ đều khiếp sợ uy phong, hễ kéo quân đến thì giặc mán đều tan trốn cả.

Khi ra kinh lược Thanh, Nghệ, những kẻ đào phạm[lxxxix] ở Bắc thành cùng kẻ thổ tù ở mặt thượng đạo đều về đầu thú.

Hai lần trọng trấn Gia Định, hưng lợi, trừ hại, dẹp giặc, yên dân, uy danh lừng lẫy, người Xiêm khiếp sợ, hễ khi nào có sứ bộ sang, thì người Xiêm lại hỏi thăm rằng: “Lê công có được mạnh khỏe không?”.

Duyệt mất rồi, thành Gia Định đổi tên là Phiên An, đặt ra Tổng đốc, Bố chính, Án sát, Lãnh binh. Khi ấy Bố chính là Bạch Xuân Nguyên sách nhiễu tham lam, tự xưng là phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Duyệt, sai bắt lũ Lê Văn Khôi[xc] là bộ hạ Duyệt để tra hỏi. Khôi sợ phải tội, mưu làm phản đêm hôm 18 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi ngầm dụ đảng lính Bắc Thuận[xci] 27 người vào thành giết Bố chính Bạch Xuân Nguyên và Tổng đốc Nguyễn Văn Quế, chiếm giữ thành Phiên An. Quan quân đánh mãi không phá được, đến năm Minh Mệnh thứ 16 mới dẹp yên. Đức Minh Mệnh truy trách là tại Duyệt nuôi lũ phỉ đảng để gây nên vạ. Các quan nội các đều dâng sớ kể tội Duyệt. Đình thần nghị xử kết án Duyệt đáng tội trảm 7 điều, tội giảo 2 điều. Sau xử án Duyệt phải truy đoạt quan tước, cuốc phẳng mộ địa, dựng bia đề tám chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt thụ pháp xứ”. Con nuôi và cháu là Hán, Yên, Tề đều phải xử tử.

Mộ Duyệt ở Gia Định, từ đấy thường khi trời tối, đêm khuya, trong mộ hình như có tiếng quỉ khóc, hoặc tiếng người, tiếng ngựa ồn ào, nhân dân ở đấy không ai dám đến gần. Đến sau sai quan địa phương bỏ cái bia dựng ngày trước đi, và cho con cháu được xây mộ lại, thì tiếng khóc ban đêm mới thôi.