CHƯƠNGCHƯƠNGCHI
MẠC ĐĨNH CHICHCHICHI
Mạc Đĩnh Chi tự là Tiếu Phu, người làng Lũng Đỗng, huyện Chí Linh (Hải Dương), nguyên về dõng dõi quan Thượng thư Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ Trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, làm Lại bộ Thượng thư).
Tục truyền làng Lũng Đỗng có một thung rừng rậm, cây cối bùm tum lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu to bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị ông kia chém chết bỏ thây ở đấy. Sáng mai ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành một gò mả.
Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng, sinh ra Mạc Đĩnh chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu.
Ông cha đến lúc gần mất, dặn lại táng lên trên mả con hầu, vì biết chỗ ấy là chỗ đất kết (ngôi mả đến giờ vẫn còn).
Mạc Đĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người. Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu quốc công mở trường dạy học trò, Đĩnh Chi vào học. Đến năm gần 20 tuổi, là năm Giáp thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Đĩnh Chi thi đình, văn đáng đỗ đầu cả mọi người. Nhưng vua trông thấy người hình dạng xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên, Đĩnh Chi là một bài phú “Ngọc tỉnh liên” để ví vào mình, vua mới lại cho đỗ Trạng nguyên.
Khi Đĩnh Chi phụng mệnh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, đã hẹn ngày với người Tàu đến hôm ấy thì mở cửa ải, vì gặp phải trời mưa gió sai hẹn, người Tàu đóng cửa không cho vào. Đĩnh Chi nói tử tế xin cho mở cửa. Người Tàu ra một câu đối tự trên ải ném xuống, và bảo hễ đối được thì mở cửa.
Câu ra:
“Quá quan trì, quan quan bế nguyện quá khách quá quan”[xxiii].
Đĩnh Chi viết ngay một mảnh giấy đối lại đưa lên:
“Xuất đối dị, đối đối nan thỉnh tiên sinh tiên đối”[xxiv].
Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa Yên Kinh, người Tàu thấy xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hôm, quan Tể tướng Tàu mời vào phủ đường ngồi chơi, Đĩnh Chi trông thấy trên bức trướng có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tưởng là con chim thực, đứng dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm cả lên, Đĩnh Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra.
Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng:
- Tôi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai, không ai vẽ đậu cành trúc bao giờ. Nay Tể tướng sao lại cho vẽ thế? Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu như thế, thì cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e rằng đạo tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày mòn đi, nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy thôi.
Chúng chịu là biện bác có lẽ.
Đến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quí. Vua Tàu sai Đĩnh Chi và một người sư Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt.
Sứ Cao Ly làm xong trước.
Lời tán rằng:
“Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công. Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề”[xxv].
Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia viết, biết là lời lẽ như thế, mới suy ra mà đề một bài như sau này:
“Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô nhĩ ư tư thời hề, Y, Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vũ tuyết tái đồ nhĩ ư tư thời hề, Di, Tề ngã phu Y! dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù?”[xxvi].
Đề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ Y, phê rằng: “Lưỡng quốc trạng nguyên” (nghĩa là trạng nguyên hai nước).
Thường khi cưỡi lừa đi đường, chạm phải ngựa của người Tàu. Người kia đọc lên một câu rằng:
“Súc ngã kỵ mã, Đông di chi nhân dã! Tây di chi nhân dã!”[xxvii]
Đĩnh Chi ứng khẩu đối rằng:
“Át dư thừa lư, Nam phương chi cường dư! Bắc phương chi cường dư!”[xxviii]
Lại thường đối đáp với người Tàu, Tàu ra rằng:
“An, nữ khứ: thỉ nhập vi gia”[xxix]
Đối rằng:
“Tù, nhân xuất: vương lai thành quốc”[xxx]
Người Tàu phê rằng:
- Con cháu về sau, tất có người làm đến đế vương, nhưng hiềm về chữ quốc (国) đơn, thì hưởng nước không được tràng cửu mấy nỗi.
Lại ra:
“Nhật hỏa vân yên bạch trú thiêu tàn ngọc thỏ”[xxxi]
Đối:
“Nguyệt cung tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô”[xxxii]
Người Tàu phê rằng:
- Con cháu về sau, tất có người cướp nước (Mạc Đăng Dung giết vua Lê cướp nước).
Lại ra:
“Li, vị, võng, lưỡng, tứ tiểu quỉ”[xxxiii]
Đối:
“Cầm, sắt, tì, bà, bát đại vương”[xxxiv]
Tàu phê rằng:
- Đời sau được làm phúc thần, hưởng người ta tế bái (về sau quả nhiên làm thành hoàng làng Cổ Trai).
Lại ra:
“Điểu tập chi đầu đàm Lỗ luận: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri!”[xxxv]
Đối:
“Oa minh trì thượng độc Châu thư: Lạc dữ tiểu lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?”[xxxvi]
Lại ra:
“Lạc thủy thần qui đan ứng triệu, thiên số cửu, địa số cửu, cửu cửu bát thập nhất số, số số hỗn thành tam đại đạo, đạo hợp Nguyên thủy thiên tôn, nhất thành hữu cảm”[xxxvii]
Đối:
“Kì sơn minh phụng lưỡng trình tường, hùng thanh lục, thư thanh lục, lục lục tam thập lục thanh, thanh thanh ưởng triệt cửu trùng thiên, thiên sinh Gia Tĩnh hoàng đế, vạn thọ vô cương”[xxxviii]
Một khi bà Hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu sai ông Mạc Đĩnh Chi vào đọc văn tế. Đến lúc quì xuống cầm bản văn đọc thì chỉ thấy một tờ giấy trắng, có bốn chữ nhất mà thôi. Đĩnh Chi không nghĩ ngợi gì, đọc ngay rằng:
“Thanh thiên nhất đóa vân, hồng lô nhất điểm tuyết, ngọc uyển nhất chi hoa, dao trì nhất phiến nguyệt. Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết”[xxxix]
Bài văn ấy còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai cũng chịu tài ứng biến nhanh.
Tục truyền rằng Mạc Đĩnh Chi ở Tàu, ai cũng chịu là người tài, mà xét đến tướng mạo, thì không có gì làm quí cách, mới cho người rình, lúc đi đại tiện thấy tiện ra hình vuông, mới biết có ẩn tướng ở đấy.
Đến lúc đi sứ về, người Tàu lại theo sang xem địa lý, xem đến ngôi mộ thân phụ ông ấy, chịu là ngôi đất hay và có nói rằng ngôi ấy hình thế rất đẹp, chỉ hiềm không có nước tụ, thiếu mất hổ thủy, cho nên quí mà vẫn nghèo.
Đĩnh Chi làm quan liêm quá, vua Minh Tôn biết tính ông ấy thường sai người đem 10 quan tiền, rình lúc tối bỏ vào cửa nhà ông ấy. Sớm mai Đĩnh Chi vào tâu ngay với vua, xin bỏ tiền ấy vào kho.
Vua bảo rằng:
- Tiền ấy đã không có ai nhận, thì cho người cứ việc mà tiêu.
Bấy giờ Đĩnh Chi mới lấy, đại để thanh liêm như thế cả. Đến triều vua Hiến Tôn, làm nên đến chức Tả bộc xạ (Tể tướng). Văn chương lưu truyền lại về sau rất nhiều, mà bài nào cũng vui thích cho tai mắt người ta cả. Vả lại có đức hiền hậu, cho nên để phúc mãi đến đời con cháu. Con ông ấy là Khản, Trực, cùng làm đến Viên ngoại lang. Cháu là Địch, Toại, Viễn, cùng có quyền thế làm quan đương lúc nhà Minh cai trị. Đời cháu chắt thiên[xl] sang ở làng Cổ Trai huyện Nghi Dương, thì có Đăng Dung là cháu bảy đời ông ấy làm vua nhà Mạc.
Nhà Mạc lên làm vua, truy phong Đĩnh Chi làm Huệ việt linh thánh đại vương, bây giờ ở làng ấy còn thờ làm phúc thần.
CHU VĂN AN
Tiên sinh húy là Văn An, tự là Linh Triệt. Người làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, đỗ Tiến sĩ về triều nhà Trần.
Ngài tính ngay thẳng mà điềm đạm, không ham đường danh lợi, chỉ cốt lấy sự tỏ đạo thánh nhân mà triệt mối dị đoan làm việc mình.
Ngài mở một trường dạy học ở cạnh đầm thôn Cung Hoàng làng ấy. Học trò đến học rất đông, mà nhiều người làm nên hiển đạt, như là Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát làm đến Tể tướng, mà vẫn phải giữ phép học trò, đứng hầu dưới đất. Trong bọn học trò, ai có điều gì không phải, thì lập tức quát mắng đuổi đi ngay.
Trong năm Khai Thái đời vua Minh Tôn, vua nghe tiếng ngài là bậc đạo học mô phạm, vời vào làm Quốc tử giám Tư nghiệp để dạy Thái tử học. Đến năm Đại Trị đời vua Dụ Tôn, chính sự triều đình mỗi ngày một suy đốn, bọn quyền thần lắm kẻ sinh ra kiêu ngạo, ngài dâng sớ xin chém bảy người gian nịnh, thì toàn những người quyền thế hách dịch bấy giờ. Vua không nghe, vì thế ngài cởi mũ trả chức quan, xin về làng cũ.
Ngài trí sĩ rồi, nhân ra chơi làng Ái Kiệt, huyện Chí Ninh (Hải Dương), thấy có phong cảnh lạ lùng, núi non vui vẻ[xli], mới làm nhà ở trong khoảng núi Lân Phụng, tự hiệu là Tiều ẩn tiên sinh. Mỗi khi nhàn ngài ra thẩn thơ chơi trên đầm Miết và trong sông Thanh Lương, ngâm thơ uống rượu làm vui. Khi nào có việc triều hội gì, thì lại vào chầu. Vua Dụ Tôn muốn dùng ngài làm tướng, nhưng ngài nhất định không làm quan nữa.
Bà Hiếu từ thái hậu nói rằng:
- Người ấy là bậc cao hiền, thiên tử không có quyền bắt người ta làm tội được, giao thế nào được chính sự cho người ta!
Vua mới sai đem áo mũ đến ban cho ngài, ngài nhận lấy nhưng lại đem cho người khác, thiên hạ ai cũng khen ngài là cao. Học trò bấy giờ coi ngài như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu, trọng vọng vô cùng.
Không bao lâu, ngài mất ở nhà, vua Nghệ Tôn sai quan đến dự tế, ban tên thụy gọi là Văn trinh công, và cho hiệu là Khang tiết tiên sinh, cho được tòng tự[xlii] vào bên hữu võ đền Văn miếu (đền thờ đức thánh Khổng tử) ngang hàng với các bậc tiên nho.
Tục truyền khi ngài dạy học ở cạnh làng Cung Hoàng, có người học trò trẻ tuổi, mặt mũi phương phi, sáng nào cũng đến nghe sách, ngài khen là người siêng năng, mà không biết là người ở đâu, mới rình xem lúc về đi đường nào, thì thấy đi đến đầm Cung Hoàng rồi biến mất.
Ngài biết người ấy tất là thủy thần, nhân bấy giờ trời nắng mãi, ngài mới bảo người ấy rằng:
- Thiên tai khi nắng, khi lụt, số trời không biết đâu mà nói, nhưng mắt trông thấy dân phương này tiều tụy lắm, ai là chẳng thương tình. Anh có phép gì làm mưa, giúp cho thầy mà cứu lấy dân này không?
Người học trò có ý khó lòng, nhưng nể lời thầy không biết nói làm sao, mới mài mực đem ra giữa sân, hòa với nước phun ra, một lát mưa to như trút nước xuống. Dân được trận mưa ấy, lúa má đỡ hại nhiều.
Người ấy từ về, sáng mai, thấy một con thuồng luồng to chết nổi ở trong đầm, mới biết tức là người học trò ấy.
Ngài thấy vậy thương xót lắm, sai học trò vớt xác thuồng luồng lên chôn cho tử tế. Bây giờ vẫn còn gò mả thuồng luồng.
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Tiên sinh húy là Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Tiên thế nhà ngài có âm đức, đời ông là Văn Tỉnh được phong tặng Thiếu bảo Tư quận công, được ngôi dương cơ, hợp vào kiểu đất của Cao Biền. Đời thân phụ ngài là Văn Định được phong tặng làm Thái bảo Nghiêm quận công. Mẹ ngài là Từ thục phu nhân họ Nhữ, nguyên là con gái quan Hộ bộ thượng thư là Nhữ Văn Lan, ở làng An Tử, huyện Tiên Minh. Bà ấy thông kinh sử, giỏi văn chương, mà lại tinh nghề tướng số.
Bà ấy kén chồng đến ngoài 20 tuổi, thấy ông Văn Định có tướng sinh ra quí tử mới lấy. Về sau lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hàn, ngạc nhiên nói rằng: “Tiếc thay! Khi trước không gặp người này!”. Hỏi ra thì chàng ấy là Mạc Đăng Dung (về sau làm vua nhà Mạc). Bà ấy phàn nàn không ngần nào.
Bỉnh Khiêm sinh về năm Tân hợi đời Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn), đẫy đà to lớn, mặt mũi khôi ngô, chưa đầy tuổi tôi đã biết nói. Một khi Văn Định đang ẵm trên tay cho trông ngóng bỗng dưng nói rằng: “Mặt trời mọc về phương đông”. Văn Định lấy làm kỳ dị. Đến năm lên bốn tuổi, phu nhân dạy ngài học chính văn trong kinh truyện, dạy đến đâu thuộc lòng đến đấy. Bà ấy lại dạy học thuộc lòng vài mươi bài thơ nôm.
Một bữa, phu nhân đi vắng, Văn Định kéo một cái dây đùa với con, rồi ngâm đùa một câu rằng: “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”. Đương đọc dở dang, thì con tiếp theo mà ngâm rằng: “Vén tay tiên hốt hốt rung!”. Văn Định thấy con thông minh mừng lắm, về khoe chuyện với phu nhân. Phu nhân giận nói rằng:
- Mặt trăng là phận bày tôi, sao ông lại dạy con điều ấy?
Văn Định thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn còn căm tức xin từ về, nhất định không ở đấy nữa, về sau bà ấy già đời ở nhà bố mẹ đẻ[xliii].
Khi Bỉnh Khiêm còn để hai trái đào, cùng bọn trẻ con tắm ở bến Hàn, có người đi thuyền trông thấy nói rằng:
- Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dày lắm, chỉ làm được Trạng nguyên Tể tướng là cùng!
Khi ngài bé thì học ở nhà, đến lúc lớn, nghe tiếng ông Bảng nhãn Lương Đắc Bằng hay chữ, mới vào Thanh Hóa theo học ông Bảng nhãn.
Lương Đắc Bằng vốn ở làng Hội Trào, huyện Hoằng Hóa. Nguyên có một chi họ lạc sang ở Vân Nam, đời đời làm quan bên Tàu. Khi Đắc Bằng sang sứ nhà Minh, gặp một người cùng họ là Lương Nhữ Hốt cho một quyển “Thái ất thần kinh”. Đắc Bằng đem về học tập, cho nên tinh nghề lý số, việc gì cũng tính biết được trước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm học hết được phép thuật của ông Lương Đắc Bằng. Khi ông Đắc Bằng mất, dặn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau phải trông nom cho con mình là Lương Hữu Khánh.
Trong năm Quảng Thiệu (Lê Chiêu Tôn), có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở ẩn một chỗ không muốn cầu tiếng tăm với đời. Bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Đăng Dung cùng có ý muốn tranh quyền, đánh nhau luôn mấy năm. Ngài tính số Thái ất, biết cơ nhà Lê lại khôi phục được.
Ngài có bài thơ cảm hứng sau này:
Non sông nào phải buổi binh thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười!
Cá vực, chim rừng ai khiến đuổi?
Núi xương, sông tuyết thảm đầy vơi.
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ [xliv]
Thú dữ nên phòng lúc cắn người [xlv].
Ngán ngẩm việc đời chi nói nữa,
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi!
Về sau, nhà Mạc chiếm giữ Kinh thành, bốn phương đã hơi yên ổn, các bạn bè nhiều người khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất đắc dĩ phải ra thi đỗ Trạng nguyên năm Đại Chính thứ sáu nhà Mạc. Bấy giờ ngài đã 44 tuổi.
Vua nhà Mạc cất ngài làm Tả thị lang, Đông các đại học sĩ. Ngài làm quan được 8 năm, trước sau dâng sớ hạch 18 người lộng thần, nhân có chàng rể là Phạm Dao cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo về dưỡng lão.
Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng, gọi là am Bạch Vân, lại bắc hai dịp cầu gọi là Nghênh Phong và cầu Tràng Xuân, thường thường ra chơi hóng mát. Lại làm một cái quán Trung Tân ở bến sông Tuyết Giang, dựng bia kí sự mình. Khi thì ngài bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc Hải, khi thì đi với một vài nhà sư chơi ở các núi An Tử, núi Ngọa Vân và núi Đồ Sơn. Đi đến đâu làm thơ ngâm vịnh đến đấy, hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu rít, thì lấy làm khoái chí lắm, nhởn nhơ cả ngày.
Ngài tuy ở nhà, nhưng vua nhà Mạc vẫn coi ngài quí trọng, nhà nước có công việc gì to, thì sai sứ đến hỏi tận nhà, hoặc khi mời về Kinh mà hỏi. Ngài bàn định lắm điều ích lợi cho nhà nước, nhà Mạc phong ngài làm Lại bộ thượng thư, Thái phó Trình quốc công, vì thế ta thường gọi là Trạng Trình.
Năm Ất dậu, ngài phải bệnh, Mạc Mậu Hiệp sai sứ đến thăm và hỏi việc hậu sự.
Ngài bảo rằng:
- Ngày sau, nước có việc, ở xứ Cao Bình, tuy nhỏ, nhưng cũng có thể hưởng phúc được vài đời nữa.
Đến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao Bình, quả nhiên còn giữ được bốn đời, rồi mới tuyệt.
Ngày 28 tháng một năm Ất dậu ngài mất, thọ 95 tuổi. Học trò gọi ngài là Tuyết giang phu tử.
Ngài học tinh về thuật số, phàm các việc tai, tường, họa, phúc, cùng là ngày mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước. Có một người học trò tên là Bùi Sinh, ngài bảo người ấy về sau tất phú quí. Đến khi Bùi Sinh gần 70 tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai. Ngài cười không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi Sinh mượn 10 chiếc thuyền đánh cá, cho bơi ra bến Hồng Đàm bể Vạn Ninh, dặn đến giờ ấy… hễ gặp cái gì thu lấy đem về, chắc được thưởng to. Bùi Sinh tuân lời quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh tề, thuyền bạt phong[xlvi] đến đấy. Bùi Sinh đem về phụng dưỡng coi như mẹ. Được vài hôm, có quan Tổng đốc Quảng Đông sai người sang nói với vua rằng: “Thái phu nhân chơi bể bạt phong, xem thiên văn thì thấy ở phương nam, xin nhà vua vì nghĩa láng giềng mà tìm giúp cho”. Ngài sai Bùi Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận công.
Năm Thuận Bình thứ 8 nhà Lê (1556), vua Trung Tôn mất không có con, bấy giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền, có bụng hồ nghi, không biết nghĩ ra thế nào. Hỏi Phùng Khắc Khoan, Khắc Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai người đi lẻn ra Hải Dương để hỏi ngài, ngài chẳng nói câu gì, chỉ ngảnh lại bảo đầy tớ rằng:
- Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ.
Nói rồi, sai tiểu quét dọn đốt hương, để ngài ra chơi chùa, và bảo tiểu rằng:
- Giữ chùa thờ phật thì ăn oản.
Đó là có ý khuyên Trịnh Kiểm tìm lấy dòng dõi nhà Lê mà lập nên, mà phải cứ giữ đạo làm tôi ăn mày phật thì mới được hưởng phúc.
Sứ giả về nói với Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh Tôn lập nên, quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà họ Trịnh cũng đời đời được vinh hiển.
Khi ấy đức Dụ tổ triều Nguyễn ta (Đức Nguyễn Hoàng) đang có hiềm với Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm có ý muốn âm hại[xlvii], đức Dụ tổ lo sợ, không biết nghĩ mưu gì cho tránh được nạn, mới sai người ra hỏi ngài. Bấy giờ ngài đang chống gậy chơi trong vườn cảnh. Trong vườn có vài mươi ngọn núi non bộ, lại chồng chất đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến đang bò trên tảng đá, ngài nhìn xem đàn kiến rồi tủm tỉm cười nói rằng:
- Một dải núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đời.
Người kia thấy nói vậy, về nói với đức Dụ tổ. Đức Dụ tổ biết ý, muốn xin vào trấn thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy có dải núi Hoành Sơn), quả nhiên mỗi ngày một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn triều.
Học trò ngài rất nhiều, nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thời Cử là làm nên to mà có danh hơn cả. Phùng, Lương thâm thúy về nghề lý học, cùng làm danh thần lúc nhà Lê trung hưng.
Khi trước ông Phùng Khắc Khoan thuê nhà đến học ngài. Lúc học giỏi rồi, ngài đang đêm đến chơi nhà trọ, gõ cửa mà bảo rằng:
- Gà đã gáy rồi, sao không đứng dậy mà thổi cơm ăn, còn nằm mãi đấy ư?
Lời ấy có ý giục ông Khắc Khoan vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Ông Khắc Khoan cũng biết ý thế, mới cùng với Nguyễn Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.
Tính ngài thuần nhã, không hay nói, mà đã nói câu nào thì là thích đáng. Ngài làm ra thơ từ rất nhiều, đến nay vẫn còn một tập thơ Bạch Vân và một quyển sấm ký truyền lại.
Khi ngài mất rồi, người làng nhớ ân đức của ngài lập miếu ở nơi nhà cũ của ngài, bốn mùa cúng tế. Miếu ấy đến bây giờ vẫn còn…
ĐẶNG ĐÌNH TƯỚNG
Đặng Đình Tướng người làng Lương Xá, huyện Chương Đức.
Tục truyền đời tổ mẫu nhà ông ấy nghèo khó, phải đi ăn xin. Trong làng có một cái đầm, bốn mùa không lúc nào cạn nước. Những người cấy gặt, thường phải bơi thuyền thúng đi làm. Giữa đầm có một gò cao, chúng thường tụ ở đấy kiếm ăn. Bà cụ kia cũng thường theo người ta vào đấy ăn cơm. Một hôm trời rét lắm, bà già không chịu được, nằm xuống ở đấy. Khi chúng trở về, không ai bảo. Đến lúc bà ấy đứng dậy thì không còn người nào. Trời hôm ấy đã rét lại thêm mưa phùn, bà kia chết ở đấy. Hôm sau chúng lại ra, thì thấy mối lấp đất lên lù lù một đống to, mới biết bà ấy chết mà được ngôi thiên táng.
Từ khi ấy con cái làm ăn mỗi ngày một khá. Đến đời cháu là Đặng Đình Tướng học hành thông thái rồi thi đỗ Tiến sĩ năm Canh tuất đời Cảnh Trị (đời vua Lê Huyền Tôn). Từ đấy ra làm quan, rồi phụng mệnh sang sứ Tàu, được thiên lên làm Lại bộ Thị lang. Lâu mãi làm đến Thái phó, phong tước Quận công. Sau lại làm đến Đại tư đồ.
Tính ngài nhân hậu phúc đức lắm, chỉ mong làm những việc cho dân được nhờ. Trên từ vua, các quan, dưới đến trăm họ, ai ai cũng có lòng kính trọng. Đến lúc ngoài 70 tuổi thì ngài trí sĩ, về làng Lương Xá chơi bời sông núi, xem phong cảnh cho vui tuổi già. Nhưng cứ đến ngày sóc vọng[xlviii] thì lại vào chầu vua một lần.
Trong lòng ngài lúc nào cũng thương đến dân. Khi ngài từ quan về rồi, treo hai cái giỏ tre ngoài cổng ngõ, phàm dân gian ai có điều gì oan uổng, cho bỏ giấy vào hai cái giỏ ấy. Mỗi khi ngài vào chầu Kinh đô, thì tâu lên vua để gỡ hết oan cho người ta. Tuy vậy, ngài không thèm kể ơn với ai, cứ đạo công bằng mà cứu cho thôi, nếu ai đến tạ ơn thì ngài lấy làm ghét lắm, và không cho vào đến cửa. Vì thế ai cũng phục bụng ngài.
Ngài thọ 80 tuổi mới mất. Vua nhớ người nhân đức, phong làm Thành hoàng làng ấy, sai dân lập miếu thờ.
Từ khi ấy nhà ngài thịnh vượng lắm, con cháu làm quan khắp triều đình, mà thời nào cũng có người hiển đạt, hơn 200 năm, không lúc nào hết người làm quan. Tục có câu rằng: “Đánh giặc họ Đinh, làm quan họ Đặng”.