LÝ THƯỜNG KIỆT
Thường Kiệt tự là Hi Liệt, người làng Thái Hòa huyện Thọ Xương (tức là thành phố Hà Nội bây giờ), có tài kiêm cả văn võ. Khởi thân làm Thái giám. Đến đời vua Nhân Tôn nhà Lý, làm lên đến chức Thái úy. Trong năm Thái Ninh, nước Chiêm Thành đến quấy nhiễu xứ Nghệ An, vua sai Thường Kiệt cầm quân đi đánh, Thường Kiệt đánh đuổi về mãi nước Chiêm, lấy được châu Bố Chính, châu Địa Lỵ và châu Ma Linh, mới sai vẽ địa đồ ba châu ấy, đổi châu Địa Lỵ làm phủ Tân Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh (tức là tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bây giờ), chiêu mộ dân nghèo cho sang ở đấy khai khẩn.
Đến năm Thái Ninh thứ tư, vua Thần Tôn nhà Tống sau Thẩm Khởi, Lưu Lộng ra coi Quí Châu, có ý muốn dòm nom nước Nam. Vua Nhân Tôn sai Thường Kiệt đem quân đi cự quân Tống, Thường Kiệt đánh tràn sang nước Tàu, hạ được châu Khâm, châu Liêm, và vây hãm châu Ung, giết hại quân nhà Tống hơn 10 vạn người.
Năm sau, vua Tống sai Quách Quì làm Chiêu thảo sứ, đem 9 tướng chia đường đi sang hội với nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, để quấy nhiễu nước Nam. Vua lại sai Thường Kiệt đi đánh, đánh trận nào được trận ấy, quân nhà Tống chết hơn nghìn người, phải bỏ mà về.
Khi ấy, Lý Giác khởi loạn ở xứ Nghệ. Giác có yêu thuật, làm cho cỏ cây biến thành binh mã, quan quân đánh mãi không phá được. Thường Kiệt bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, tình nguyện xin đi đánh, thì mới dẹp tan được đám ấy.
Nhân có những công to ấy, được tiến tước phong làm đại vương. Về sau mất được phong làm thượng đẳng phúc thần.
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG[v]
Vương họ Trần tên là Quốc Tuấn, quê ở làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định, con ông An sinh vương Liễu (anh ruột vua Trần Thái Tôn).
Khi trước An sinh vương phu nhân, nằm mơ thấy một ông thần tinh vàng tướng ngọc tự xưng là Thanh tiên đồng tử phụng mệnh Ngọc hoàng xuống xin đầu thai, nhân thế có mang. Đến lúc sinh ra vương, có hào quang sáng rực cả nhà và có mùi hương thơm ngào ngạt.
Vương khôi ngô kì vĩ, thông minh sớm lắm, lên 5,6 tuổi, đã biết làm thơ ngũ ngôn, và hay bày chơi đồ bát trận. Khi gần lớn, học rộng các sách, thông hết lục thao, tam lược, có tài kiêm cả văn võ.
Trong năm Nguyên Phong thứ bảy thời vua Thái Tôn (1257), có giặc Mông Cổ lấn vào phận Hưng Hóa, vua sai vương cầm quân lên giữ mặt thượng du.
Đến thời vua Nhân Tôn, Mông Cổ lại sai Thoát Hoan đem bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi chia đường sang đánh nước Nam, vương phụng mệnh thống lĩnh các quân của vương, hầu, hội cả ở trại Vạn Kiếp, để chống nhau với quân Mông Cổ. Bấy giờ thanh thế Mông Cổ đang mạnh, vương phải rước xa giá Hoàng đế lánh vào Thanh Hóa. Hoàng đế thấy sự thể nguy cấp, muốn hàng, vương không nghe, tâu rằng:
- Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hết chặt đầu thần đi đã, rồi sẽ hàng cũng chưa muộn. Đầu thần còn thì xã tắc cũng còn, xin bệ hạ chớ lo.
Vua thấy nói cứng cỏi làm vậy, trong bụng cũng yên. Đến tháng tư, phá được quân Mông Cổ ở cửa sông Hàm Tử. Tháng năm, lại đánh vỡ quân Mông Cổ và chém được đại tướng là Toa Đô ở đất Tây Kết, Thoát Hoan phải rút quân về Tàu.
Năm Trùng Hưng thứ ba, Thoát Hoan lại đem bọn Ô Mã Nhi, A Bát Xích sang quấy thứ nữa. Vương sai Trần Khánh Dư phục quân chặn đường, đốt phá được hết thuyền lương của giặc ở cửa bể Lục Hải (thuộc về huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên). Thoát Hoan cạn lương, muốn rút quân về, vương phục sẵn quân ở sông Bạch Đằng, đóng cột chông ngầm dưới nước, chờ lúc thủy triều lên ra khiêu chiến, dử cho giặc đuổi đến chỗ mai phục, thì nước vừa xuống, thuyền giặc vướng mắc cột chông chìm đắm mất nhiều, mới thả quân mai phục ra đánh, bắt sống được Ô Mã Nhi, và bắn chết được Trương Ngọc, còn A Bát Xích, Thoát Hoan trốn được về Tàu.
Tự bấy giờ quân Mông Cổ sợ uy danh của ngài, không dám gọi tên, chỉ gọi là Hưng Đạo vương, và không dám sang quấy nhiễu nữa.
Khi Thoát Hoan sang xâm thứ sáu, có một tên ti tướng là Nguyễn Bá Linh (tức là Phạm Nhan) có yêu thuật, biến hiện trăm chiều, vương phải lập cửu cung mới phá được. Khi bắt được Bá Linh rồi, chém thế nào nó cũng không chết, vương lại dùng đến thần kiếm chém nó mới chịu.
Vương ba lần phụng mệnh chống nhau với quân Mông Cổ, trải lắm phen gian truân, mà vẫn vững một niềm không núng, cho nên về sau phá được quân giặc, lập nên công to, để cho nước Nam lại vững như cái âu vàng.
Ngài nhân có công ấy, được tiến phong làm Thái sư thượng phụ Hưng Đạo đại vương. Vua tôn kính coi như đạo cha, lập ra miếu sinh từ ở Vạn Kiếp và khắc văn bia để tỏ công đức của ngài.
Ngài thường soạn ra một quyển sách gọi là “Binh pháp yếu lược” để ban cho các tướng, lại lập ra trận đồ cửu cung bát quái, thần diệu vô cùng.
Khi ngài già, về trí sĩ ở trại Vạn Kiếp, hưởng thọ ngoài 70 tuổi mới mất, trên từ vua cho chí các quan, dưới đến trăm họ, ai ai cũng thương tiếc.
Bây giờ mỗi năm về hôm 20 tháng tám là ngày húy nhật ngài, thiện nam tín nữ đến lễ bái đền Vạn Kiếp thành ra một ngày hội to.
NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai tiên sinh, cha ông ấy là Tự khanh công, nguyên người ở huyện Phượng Nhỡn. Ông cụ ấy hay địa lý, mới đem tiên phần sang táng ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, rồi làm nhà và nhập tịch làng ấy.
Đời con là Nguyễn Trãi, đỗ tiến sĩ về thời nhà Hồ, làm đến Ngự sử đài chánh chưởng. Đến lúc nhà Hồ mất, ông ấy về ẩn ở núi Côn Sơn, có bụng muốn ra dẹp loạn cứu đời.
Bấy giờ có người ở làng Hoắc Sa tỉnh Sơn Tây tên là Trần Nguyên Hãn, đi bán dầu kiếm ăn. Một bữa trời tối, đi qua làng Chèm, mới vào đền Chèm nằm ngủ. Nửa đêm nghe có tiếng ông thần làng khác vào rủ ông Chèm lên chầu trời. Ông Chèm nói có quốc công ngủ trọ không đi được. Đến gà gáy ông thần kia trở về. Ông Chèm hỏi trên trời có việc gì, thì ông kia nói rằng:
- Thượng đế thấy nước Nam chưa có chúa, có cho ông Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) làm chúa, mà ông Nguyễn Trãi thì làm bày tôi.
Trần Nguyên Hãn nghe rõ câu ấy, chịu khó hỏi dò tìm đến nhà ông Nguyễn Trãi, kể lại chuyện ấy. Nguyễn Trãi không tin, lại về đền Chèm cầu mộng, thì thấy thần báo mộng rằng:
- Việc thiên đình bí mật lắm, không dám nói lộ ra ngoài. Có chị Tiên Dong biết tường việc ấy, vả lại là đàn bà, thì trời không trách đến, ông nên đem vàng đến nơi ấy mà hỏi.
Ông Nguyễn Trãi nghe lời ấy, đến cầu mộng đền bà Tiên Dong, thì mơ thấy bà ấy gọi bảo rằng:
- Nguyễn Trãi! Lê Lợi làm vua, mà anh thì làm bày tôi, anh chưa biết chuyện ấy à?
Ông ấy hỏi cặn kẽ lại thì mới biết ông Lê Lợi là người làng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa. Mới cùng với Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn, hỏi thăm đến nhà ông Lê Lợi. Bấy giờ Thái Tổ còn hàn vi, khi hai ông kia đến, thì ngài đang mặc cái áo cánh cộc, vai vác bừa, tay dắt bò ở ngoài đồng về. Hai ông xin vào hầu, Thái Tổ mời nghỉ lại trong nhà. Xảy gặp hôm ấy nhà có giỗ, hai ông kia xuống bếp thổi nấu, trông trộm lên nhà trên, thì thấy ngài cầm dao thái thịt, đang vừa thái vừa ăn.
Hai ông kia bàn riêng với nhau rằng:
- Bà Tiên Dong nói lừa chúng ta đây, có lẽ đâu khí tượng thiên tử mà lại thế kia bao giờ?
Liền cáo từ ra về, lại đến cầu mộng đền bà Tiên Dong, thì thấy báo mộng rằng:
- Lê Lợi làm vua, trời đã nhất định như thế rồi, chỉ vì chưa có thiên tinh giáng đấy thôi.
Hai ông lần sau lại đến thăm Thái Tổ, thì bấy giờ ngài đã được quyển thiên thư. Khi ấy đang đêm đóng cửa xem sách. Nguyễn Trãi đứng ngoài cửa dòm vào, rồi đẩy cửa, hai ông cùng vào. Thái Tổ cắp thanh gươm đi ra, hai ông cùng lạy phục xuống đất và nói rằng:
- Chúng tôi xa xôi lặn ngòi noi nước đến đây, là vì thấy ngài làm được chúa thiên hạ, xin cho chúng tôi được theo hầu.
Thái Tổ cười, lưu hai người ở lại, mưu việc khởi binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là sự trời định, đồn rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau theo về với ông ấy, quân thế mỗi ngày một thịnh.
Đến năm Mậu tuất, mới bắt đầu ra đánh nhau với quân nhà Minh, ông Nguyễn Trãi bàn mưu lập kế giúp vua Thái Tổ đánh hơn 20 trận. Năm Bính ngọ, quân ta thắng trận, tiến sát đến Đông Đô, tướng nhà Minh là Vương Thông giữ vững trong thành. Nhà Minh lại sai An viễn hầu là Liễu Thăng và Kiềm quốc công là Mộc Thạnh chia quân làm hai đường sang cứu Đông Đô. Thái Tổ đón đánh ở núi Mã An, chém được Liễu Thăng, và bắt sống được bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn 300 người, Mộc Thạnh phải trốn về nước, Vương Thông mở cửa thành ra hàng.
Tự bấy giờ hai nước lại thông hiếu, nội là tờ bồi giao thiệp với Tàu, do tự một tay Nguyễn Trãi cả.
Vì có công được phong quốc tính, gọi là họ Lê, lại mà thăng lên làm Vinh lộc đại phu nhập nội hành khiển coi cả việc trong ba quân và được phong là Tế văn hầu.
Trần Nguyên Hãn thì được phong làm quốc công, đến khi mất, lại được phong làm thành hoàng, bây giờ còn đền thờ ở làng Hoắc Xa.
Nguyễn Trãi văn chương hùng dũng, có khí lực, phàm các bài như là văn “Bình Ngô đại cáo” cùng là văn bia “Lam kinh thần đạo” có chép vào bộ Thực lục là tự tay ông ấy soạn ra cả.
Tính ông ấy điềm đạm, không ham mê danh lợi, thường có chí muốn từ chức về nhà. Ông ấy có một trại riêng ở tỉnh Bắc, gọi là Tiêu Viên. Đến đời vua Thái Tôn, Nguyễn Trãi trí sĩ về ẩn ở trại ấy. Cuối đời Thiệu Bình, vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại Tiêu Viên, Nguyễn Trãi đi vắng, có nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua mất, đình thần cho là Thị Lộ giết vua, bởi thế cả nhà ông Nguyễn Trãi phải tội tru di.
Khi trước đánh nhau ở núi Mã An, Nguyễn Trãi bắt được Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc. Hoàng Phúc giỏi nghề địa lý, khi ở nước Nam, bao nhiêu chỗ kiểu đất hay, đã biên kỳ lấy cả. Bấy giờ phải bắt, Nguyễn Trãi có ý khinh bỉ.
Hoàng Phúc cười bảo rằng:
- Mả tổ nhà tôi có Xá văn tinh, chẳng qua chỉ phải nạn trong năm ngày là cùng, không đến nỗi như ông có đất phải tru di tam tộc.
Bấy giờ cũng cho lời ấy nói xằng, về sau Hoàng Phúc quả nhiên được tha về, mà Nguyễn Trãi thì mắc nạn, mới biết lời trước là nghiệm.
Tục truyền khi ông Nguyễn Trãi chưa đỗ, dạy học trò ở làng Nhị Khê, thường có sai học trò dọn cỏ một cái gò ở ngoài đồng để làm trường dạy học. Đêm hôm trước, mơ thấy một người đàn bà vào kêu rằng: “Tôi mẹ yếu con thơ, xin ông khoan cho ba ngày để tôi đem con tôi đi chỗ khác, rồi ông sẽ sai dọn cỏ”. Sáng sớm, thức dậy ra đồng xem thì học trò đã dọn sạch rồi, và bắt được hai cái trứng rắn.
Nguyễn Trãi hỏi thì học trò nói rằng:
- Ban nãy chúng tôi thấy con rắn ở trong đám cỏ rậm, đánh nó đứt đuôi mà chạy mất, chỉ bắt được hai cái trứng ở đây.
Nguyễn Trãi nghĩ con rắn hẳn là người đàn bà báo mộng hôm qua, phàn nàn không ngần nào, mới đem hai cái trứng về nhà nuôi cho nở. Đêm hôm ấy, đang ngồi xem sách, có con rắn trắng leo lên xà nhà rỏ máu trúng vào chữ đại[vi] (代)trong trang sách, thấm xuống ba tờ giấy. Nguyễn Trãi biết là nó tất báo oán đến ba đời, đến khi hai cái trứng kia nở ra, thì một con dài, một con ngắn. Nguyễn Trãi sai đem thả xuống sông Tô Lịch ở cạnh làng.
Khi Nguyễn Trãi đã hiển đạt, một bữa, ở trong triều về, đi qua hàng chiếu, trời đã tối sâm sẩm, gặp một đứa con gái đi bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, Trãi đọc lên bốn câu thơ để hỏi đùa.
Thơ rằng:
Ả ở đâu đi bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa được mấy con?
Người con gái ấy cũng đọc lên một bài đáp lại.
Thơ rằng:
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon,
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ.
Chồng còn chưa có, có chi con!
Nguyễn Trãi thấy nói đối đáp ngay được, lấy làm khoái chí lắm. Hỏi tên thì nói tên là Thị Lộ, mới đem về cho làm nàng hầu.
Vua Thái Tôn nghe tin nàng ấy đẹp và hay chữ, sai làm nữ học sĩ, thường thường cho ra vào trong cung.
Khi vua vào chơi nhà ở Tiêu Viên, thì ông Nguyễn Trãi đi vắng, chỉ có Thị Lộ ở nhà. Nàng ấy pha nước dâng lên vua xơi, vua uống phải thì mất ngay. Nguyên Thị Lộ tức là con rắn hiện hình ra làm người để báo thù. Khi nó pha nước thì nó nhả cái nọc độc vào trong chén nước, cho nên vua trúng độc mà mất.
Các quan bắt con Thị Lộ vào tra hỏi, thì nó xưng là ông Nguyễn Trãi xui nó, đình thần mới chiểu luật bắt tội nhà ông ấy, mà bỏ con Thị Lộ vào cũi đem quăng ra sông Nhị Hà, thì nó lại hóa ra con rắn ở trong cũi chui ra đi mất.
Lúc nhà ông Nguyễn Trãi đang phải nạn, có người vợ lẽ đang có mang, chạy trốn xuống ở tỉnh Nam. Về sau sinh được người con trai đặt tên là Anh Võ. Ở đã lâu, chủ nhà mới biết là vợ lẽ ông Nguyễn Trãi.
Đến thời Quang Thuận, vua Thánh Tôn thương ông ấy mắc phải tội oan, ban chiếu giải oan, và phong tặng làm Thái sư Tuệ quốc công. Sai tìm dòng dõi nhà ông ấy, thì mới tìm thấy Anh Võ. Vua phong quan chức cho Anh Võ, để nối dõi nhà ông ấy. Đến sau Anh Võ sang sứ Tàu, đi qua hồ Động Đình, bỗng thấy con rắn ở dưới nước bò lên, rồi thì phong ba nổi lên ầm ầm. Anh Võ biết lại là con rắn trước báo oán, mới khấn rằng: “Xin cho trọn việc nước, rồi đến lúc trở về sẽ xin chịu tội”. Khấn vừa đoạn thì sóng gió lại yên. Đến lúc việc sứ xong trở về, quả nhiên lại nổi cơn sóng gió, đắm thuyền mà mất.
Vua Thái Tôn truy tặng cho làm Thái sư Sùng quốc công.
Trong năm Cảnh Hưng, triều đình duyệt lại các sắc phong của các ông khai quốc công thần. Khi duyệt đến sắc ông Nguyễn Trãi thì quan Thị lang là ông Lê Quí Đôn xé đạo sắc ấy ra nói rằng:
- Bọn loạn thần tắc tử, còn để cáo sắc làm gì nữa!
Nói vừa buông lời, bỗng nhiên ngã gục ngay xuống, rồi thấy hai tên lính bắt đi, đưa đến một chỗ đền đài, tường liễu chung quanh, có các cây cổ thụ to hàng mười ôm. Trong đền có vài chục chiếc ỷ. Ở mé hữu có một tấm sập, trên sập có một ông quan ngồi, đầu đội mũ, mình mặc áo bố tử. Lính hầu xúm xít chung quanh. Hai tên lính bắt ông Lê Quí Đôn quì ở dưới thềm, rồi ông quan ngồi trên sập thét lên rằng:
- Ta là Tế văn hầu đây, ngươi là sơ học tiểu sinh, sao dám bỉ báng người có công tiền triều, tội ngươi đáng chết!
Lê Quí Đôn ngồi nín lặng, không dám ngẩng mặt lên nhìn. Bên cạnh có người đội khăn lượt mặc áo xanh, kêu van thay cho Quí Đôn, ông quan lại nói rằng:
- Công danh sự nghiệp của ta, không thèm so sánh với ngươi, ngươi đừng tưởng ngươi đỗ Bảng nhỡn mà đã khinh người, cho về mà thử xem bài “Bình Ngô đại cáo” của ta, nếu ngươi làm hay hơn được bài ấy, thì xé sắc của ta cũng phải.
Lê Quí Đôn tỉnh dậy, kinh hãi lắm, lập tức viết lại sắc của ông Nguyễn Trãi. Vì thế sắc của công thần không ai phải tước cả.
TRỊNH KIỂM
Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Chân Phúc, tỉnh Thanh Hóa. Khi còn hàn vi, nhà nghèo lắm, mà thờ mẹ rất hiếu. Mẹ tính hay ăn thịt gà, mà nhà thì không có, ngày nào cũng phải ăn trộm một con gà của láng giềng để nuôi mẹ. Láng giềng ai cũng ghét, một bữa nhân ông ta đi chơi vắng, bắt mẹ ông ta ném xuống vực Tôm ở cạnh làng, để khỏi ăn trộm gà nữa. Không ngờ lòng trời run rủi, chỗ vực ấy chính là một huyệt to. Đêm hôm ấy, trời nổi cơn mưa gió lớn, rồi vực ấy bỗng dưng nổi đất lên thành mộ. Về sau có người địa lý Tàu xem ngôi đất ấy, nói rằng: “Ngôi đất này phát ra không phải đế, cũng không phải bá, mà có quyền nhất cả thiên hạ, truyền được tám đời, rồi vạ tự trong nhà sinh ra”.
Trịnh Kiểm từ khi mẹ mất, đi lơ bờ kiếm ăn, nấn ná sang Ai Lao, ở chăn ngựa cho đức Triệu tổ Nguyễn triều ta[vii]. Nguyên bấy giờ nhà Mạc chiếm mất ngôi nhà Lê, đức Triệu tổ đương làm Điện tiền tướng quân, rước con cả vua Cung đế nhà Lê là vua Trang Tôn chạy sang Ai Lao, tìm kế khôi phục, cho nên ở bên ấy.
Một hôm, đang đêm Triệu tổ đứng dậy mở cửa ra sân, trông xuống dưới trại, thấy có hai khối tinh đỏ đòng đọc, tựa hồ như hai bó đuốc, sai người đánh đuốc xuống xem cái gì, thì té là Trịnh Kiểm đang ngủ ở chỗ ấy, hào quang từ trong mắt ánh ra. Triệu tổ lấy làm kỳ, gọi lên hỏi chuyện, thì ứng đối giỏi giang, tài đảm hơn người.
Triệu tổ thấy người có tướng lạ, biết không phải người tầm thường, đem lòng yêu mến, cử lên làm tướng bộ hạ và gả con gái là nàng Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm.
Tự khi ấy, Trịnh Kiểm theo Triệu tổ đi đánh giặc lập được nhiều công trạng to, Triệu tổ lại càng kính trọng lắm, cử lên làm đại tướng, sai đốc binh ra đánh Nghệ An, dần dần tiến ra đến Thanh Hóa khôi phục được Tây đô.
Đến khi Triệu tổ mất bao nhiêu quyền chính của ngài, vua Trang Tôn giao phó cả về tay Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm có quyền to tự đấy.
Trịnh Kiểm tuy người võ, nhưng mưu trí hơn người, giúp vua Trang Tôn, đánh nhau với nhà Mạc, lập lên công trạng, được tiến vị phong làm Thái sư, Dực quận công, sau lại thăng làm Lang quận công. Đến đời con là Trịnh Tùng lại sắc sảo lắm, giúp vua Anh Tôn, phá được quân nhà Mạc ở cửa bể Thần Phù, dần dần tiến binh ra thành Thăng Long, bắt được Mạc Mậu Hiệp, đem lại được giang sơn cho nhà Lê, được tiến phong làm Bình an vương.
Từ bấy giờ con cháu họ Trịnh, đời đời tập phong tước vương, quyền chính lấn cả thiên tử. Trải 200 năm, tám đời truyền kế nhau, đến đời Trịnh Khải bị Bắc bình vương[viii] giết mất, bấy giờ mới hết.
LƯƠNG HỮU KHÁNH
Chi họ Lương ở Thanh Hóa, phong phú có tiếng nhất ở vùng ấy. Tổ họ ấy khi xưa sinh được ba con trai, thành ra ba chi. Đang khi cuối nhà Trần loạn lạc, một chi xiêu dạt sang Tàu, ngụ ở tỉnh Vân Nam. Có người làm nên, đời đời được tập phong tước vương. Một chi thiên ra ở xã Tào Sơn huyện Ngọc Sơn, cũng kế thế đăng khoa. Còn một chi thì ở xã Hội Trào, huyện Hoằng Hóa, sinh ra ông Lương Đắc Bằng, đỗ Bảng nhãn trong thời Cảnh Thống đời vua Hiến Tôn nhà Lê.
Lương Đắc Bằng vì có người họ ở Tàu, mới mua được nhiều thứ sách quí, cho nên học giỏi về nghề lý số. Ngoại 50 tuổi, chưa có con trai, chỉ có người vợ lẽ có mang được ba tháng. Khi gần mất, dặn vợ lẽ rằng:
- Nếu mai sau sinh được con trai, thì tất nó làm nên công danh sự nghiệp, tỏ rạng cửa nhà. Khi nào con lớn, thì nên cho đến học ông Trạng Trình ở huyện Vĩnh Lại, thì mới giữ được nền nếp nhà ta.
Nói đoạn thì mất. Về sau người vợ lẽ quả sinh được con trai, mới đặt tên là Hữu Khánh.
Hữu Khánh thông minh sớm, mười tuổi đã biết làm văn, mà sức ăn cực khỏe, thường ăn gấp ba bốn phần người thường mới no. Mẹ lắm khi phải nhịn đói để con ăn.
Nhà ông ấy nghèo, mới bảo với mẹ rằng:
- Cha tôi khi xưa làm quan thanh liêm, đến nỗi con cháu không đủ cơm cháo mà ăn. Vậy mẹ cho tôi đi nơi khác, tùy đường kiếm ăn, kẻo để phiền đến bụng mẹ.
Mẹ buồn rầu nói rằng:
- Mẹ con không nuôi được nhau, đến nỗi để con đi tha phương cầu thực, mẹ lấy làm đau xót ruột lắm.
Nói thế rồi, ứa hai hàng nước mắt. Ông ấy từ mẹ đi ra, sang các nhà học trò bên cạnh huyện ngâm thơ làm phú để độ thân.
Một khi đi qua bến đò sông Tam Kỳ, gặp 5, 6 nhà sư tự đám chay về, mang một cái đẫy có 100 phẩm oản. Nhà sư thấy ông ấy có dáng đói, cho vài chiếc oản. Ông ấy từ nói rằng:
- Học trò nghèo nhịn đói, đã mấy hôm nay, may gặp được Đại bồ tát, tưởng là có bụng bố thí làm sao, lại bủn xỉn cho được vài phẩm oản, thì ăn chả bõ dính mồm.
Có một nhà sư già cười nói rằng:
- Thầy kia đã gọi là học trò, thì thử làm một bài thơ “Học trò đi thuyền chung với nhà sư”, hễ sang khỏi sông mà xong bài thơ, thì có bao nhiêu oản xin biếu cả.
Ông ấy ngồi trong thuyền, ngâm ngay một bài thơ như sau này:
Một pho kinh sử bộ kim cương,
Đây đấy cùng thuyền khéo một đường.
Trong hội cồ đàm ngươi thỏa thích
Trên ngôi đài các tớ nghênh ngang.
Truyện xưa ngươi vẫn căm Hàn Dũ[ix]
Việc trước ta còn oán Thủy Hoàng[x].
Gặp gỡ mảy may rồi lại biệt,
Kể tròn quả phúc, kẻ vinh xương.
Chưa sang khỏi đò đã vịnh xong bài thơ. Nhà sư mừng rỡ, dốc cả đẫy oản ra cho ông ấy. Ông ấy ngồi ngay đầu thuyền ăn một lúc hết 80 phẩm oản. Người trong thuyền ai cũng ngạc nhiên, nhà sư lấy làm kỳ dị, lại tặng thêm một quan tiền nữa và nói rằng:
- Thầy có tài như thế, nay tuy còn ở trong trần ai, nhưng tất có ngày làm nên hách dịch. Sư nghèo này xin dâng một bữa, ngày sau có đắc chí, đánh dẹp đốt phá ở đâu, thì xin chừa những nơi chùa chiền ra, mới là ân huệ.
Sang khỏi đò, ông ấy từ bọn sư rồi đi. Bấy giờ đang lúc Lê, Mạc đánh nhau, dân xã điêu tàn, ông ấy đi đến đâu, không một kẻ nào nhìn đến, có khi ba ngày mới được ăn một bữa, thường vẫn phải làm mướn kiếm ăn.
Một buổi sớm, đến làng Vĩnh Trị, gặp một bà già ra chợ, gọi người thuê làm ruộng hoang. Hỏi mấy mẫu, thì bà già đưa đến chỗ ruộng sâu, trỏ ra bảo rằng:
- Chỗ ruộng kia nước sâu, mà cỏ mọc bùm tum, ước chừng năm mẫu.
Ông ấy bảo rằng:
- Bà cụ về nhà thổi cơm độ mười người ăn, và đem sẵn tiền gạo thuê công đến bờ ruộng này, để tôi gọi giúp người làm cho.
Bà kia y lời ấy trở về làm cơm. Ông ấy mới cầm một con dao to lội xuống ruộng dọn cỏ, chưa đến buổi trưa, đã dọn quang cả 5 mẫu ruộng. Dọn xong, nằm ngủ dưới gốc cây, tiếng ngáy như sấm.
Một lát, bà già sai người nhà đem cơm đến, gọi ông ấy thức dậy, ông ấy ăn một lúc, hết cả hai mâm cơm, rồi lấy tiền gạo mà đi.
Chúng[xi] tưởng là thần, dần dần mới biết là con quan Bảng nhãn ai nấy phàn nàn không ngần nào.
Đến năm 18 tuổi, nhớ lời cha dặn, mới đến học quan Trạng Trình. Bấy giờ học trò quan Trạng hơn 3.000 người, duy có ông Kế Khê là hay chữ nhất trường. Khi ông Hữu Khánh đến học, mới làm ba kỳ văn, đã đè trên ông Kế Khê.
Trình tiên sinh vốn là học trò ông Lương Đắc Bằng khi xưa, nay thấy con thầy đến học, hay chữ như thế, có bụng quí trọng trăm phần, thường tư cấp cho để mà học.
Bấy giờ nhà Mạc mở khoa thi, ông Lương Hữu Khánh vốn không có bụng làm quan với nhà Mạc, nhưng ngặt vì nhà nghèo và còn mẹ già, bất đắc dĩ phải ra thi. Khi thi thì bốn kỳ cùng thứ nhất, mà văn ông Kế Khê thì đỗ thứ nhì. Đến lúc hồi phách[xii] quan Tràng thấy ông ấy là người Thanh Hóa, mới đánh xuống thứ nhì mà ông Kế Khê lên thứ nhất (vì bấy giờ tự Thanh trở vào thuộc về nhà Lê, tự Ninh Bình trở ra thuộc về nhà Mạc). Ông Hữu Khánh thấy xử thiên tư làm vậy, mới bỏ không vào thi đình nữa, vì thế ông Kế Khê mới đỗ Trạng Nguyên[xiii].
Khi ấy, Hữu Khánh trọ ở hàng Bông, một hôm để dành được 6, 7 đấu gạo, và hai lọ nước mắm, thổi cơm rồi trải chiếu xuống đất ngồi ăn, rung đùi đắc chí, cười vang lên nói rằng:
- Thế này chẳng kém gì mâm cơm nhà quan!
Xẩy có một ông quan tự trong triều trở về, nghe thấy tiếng cười nói, dừng xe lại nhìn, lấy làm kỳ dị cho 5 quan tiền, rồi tiến lên với vua nhà Mạc.
Vua Mạc sai sứ đến nhà trọ, khuyên dụ trăm điều, Hữu Khánh nhất định không ra làm quan. Tự bấy giờ lại đi bơ vơ, nay đây mai đó, con một nơi, mẹ một nẻo, trông cảnh động lòng, lắm phen chua xót.
Nhà Lê bấy giờ khởi quản ở phủ An Tràng, vốn nghe tiếng ông Hữu Khánh là người tài lạ, nhiều khi muốn sai người ra đón về giúp, nhưng vì đường xá xa khơi, đi lại gian hiểm, cho nên chưa có dịp nào mà đem về được.
Vài năm sau, Kế Khê được cầm quyền chính nhà Mạc, sai người tìm Hữu Khánh thì gặp cả hai mẹ con ở huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc đem về. Kế Khê nghĩ tình bạn lưu ở trong nhà, cung đốn tử tế, và khuyên dỗ cho ra làm quan, nhưng Hữu Khánh biết cơ nhà Lê sắp trung hưng, có ý muốn phò nhà Lê, cho nên không ra làm quan với nhà Mạc.
Kế Khê biết ý Hữu Khánh, muốn đuổi đi nhưng không nói ra, nhân một bữa ở trong triều về, giả tảng nói rằng:
- Tôi hôm nay phụng chỉ làm một bài phú, nhưng việc quan bận bội lắm, nhờ anh làm giúp cho tôi.
Nói rồi, thò tay vào túi, lấy ra một mảnh giấy đầu bài, đưa cho ông Hữu Khánh. Hữu Khánh thấy đầu bài: “Tần quan văn kê”[xiv] biết là ý muốn đuổi mình, lập tức dặn mẹ đi lẻn ra bến Hoàng Liệt về Thanh Hóa trước, mà mình thì mật đưa một bài biểu vào An Tràng, hẹn ngày ấy thì đem thuyền ra đón tại cửa Thần Phù.
Được vài hôm, làm xong bài phú, để trên đầu giường, rồi lẻn ra đi gấp đường xuống cửa bể Thần Phù. Khi Kế Khê ở trong triều trở về, đến nhà học, không thấy ông Hữu Khánh đâu, cho đi hỏi khắp cả các nhà anh em bạn học, cũng không thấy tin tức gì cả. Xẩy thấy trên đầu giường có bài phú, trong bài có câu rằng: “Lưu khách hóa ra đuổi khách”. Kế Khê ngạc nhiên nói rằng:
- Anh này đi mất, triều đình còn là nhiễu về anh này!
Lập tức sai quân đi các ngả đuổi theo bắt về. Khi Hữu Khánh đến cửa Thần Phù, thì vua Lê đã sai năm chiếc thuyền chiến và 1.000 quân ra đón. Hữu Khánh vừa bước chân xuống thuyền thì quân nhà Mạc đuổi theo vừa đến.
Hữu Khánh ngồi trong thuyền gọi to lên bảo rằng:
- Gửi lời các anh, về tạ ông Kế Khê, ngày sau ta sẽ xin đền trả ơn.
Khi về đến cửa phủ An Tràng, vua Lê mừng rỡ lắm, cử làm Thị lang, cho tham tá việc quân cơ. Hữu Khánh bầy ra mưu mẹo gì cũng đắc cả, vua tin dùng hơn cả mọi người, sai cầm riêng một đạo quân đi dẹp giặc. Hữu Khánh nhớ đến lời nhà sư khi trước, phàm các trận mạc, thấy chỗ nào đồn giặc đóng cạnh chùa chiền, thì rút quân lảng đi không đánh, để tránh sự phá hại nhà chùa.
Về sau làm đến Binh bộ thượng thư, công nghiệp hiển hách vào bậc danh thần đời trung hưng.
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Phạm Đình Trọng người làng Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, tỉnh Hải Dương.
Tục truyền ngài là thần Ngũ hồ giáng sinh[xv]. Năm 26 tuổi đỗ Tiến sĩ, quan trường là Nguyễn Trọng Quát xem văn của ngài, đã mừng cho triều đình được người kinh luân giỏi.
Năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) được cử làm Giám sát ngự sử, một khi ở kinh về, ngủ trọ làng Hoàng Xá, huyện Kim Thành, trông thấy một người nằm núp trong đống củi, bắt ra tra hỏi, thì là tướng giặc tên là quận Gió, ngài bắt đem nộp, được thưởng 300 quan tiền.
Năm Tân sửu ngài làm Hiệp đồng, kiêm chức Phòng ngữ sứ, phải đi dẹp giặc, bắt được hai tướng giặc là ngụy Cừ và ngụy Tuyển ở núi Ngọa Vân, đóng cũi đem về kinh đô, được thăng làm Công bộ Hữu thị lang.
Bấy giờ trong nước lắm giặc, mà kiệt hiệt nhất là Quận He, tên chữ là Nguyễn Hữu Cầu. Quận He là người làng Lôi Đỗng, huyện Thanh Hà, có sức khỏe như thần, mỗi khi lâm trận, chỉ cắp hai thanh siêu đao phi ngựa xông vào, quan quân tan dãn, không ai địch nổi, đã có tiếng gọi là Hạng Võ nước Nam. Tục truyền là thần cá bể sinh ra, cho nên lại tài nghề lặn nước.
Quận He quấy nhũng vùng đông nam, quan quân đánh mãi không trừ được. Ngài phụng mệnh đốc quân thủy đóng ở bờ sông cạnh núi Đồ Sơn, huyện Đông Triều. Một hôm, ngài đang ngồi trong thuyền, không ngờ Quận He lặn ngầm dưới nước, nhẩy vọt lên thuyền, giết chết một tên lính. Ngài vội vàng đóng cửa thuyền hô to lên rằng:
- Tao đã chém được Quận He rồi đây!
Chúng tưởng thực xô cả lại. Quận He phải nhẩy xuống sông, núp dưới bánh lái. Ngài sai quân cầm giáo đâm xỉa xuống. Quận He chạy mất.
Lại một hôm, ngài chỉ có một chiếc thuyền đóng ở bến Triều, bất thình lình, giặc kéo 3 chiếc thuyền đến vây lại đánh, ngài suất thủ hạ đánh hăng sức quá, giặc phải bỏ mà chạy, vua khen là mưu dũng hơn người, phong làm Giao lĩnh hầu.
Năm Nhâm tuất, vua triệu ngài về sai làm chủ khảo thi hội. Thi xong, lại sai cùng với Tuân quận công tiến quân đi đánh giặc, ngài tâu tường tận lắm, vua mừng mà thưởng cho 3 cấp và 300 quan tiền.
Năm Giáp tý, Quận He chiếm giữ núi Đồ Sơn ở phủ Kinh Môn, tán tía, tàn vàng, lừng lẫy một vùng bãi bể, tự hiệu là nhà Triều, thủ hạ có 18 quận công, và bốn năm vạn quân, thanh thế rất là hách dịch.
Ngài phụng mệnh làm Thống lĩnh bình khấu đại tướng quân, được quyền sai phái binh mã thủy bộ các xứ Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam, An Quảng. Ngài nhận chức, coi việc đánh giặc là trách nhiệm của mình. Khi cất quân ra khỏi cửa phủ, đóng cờ ở đình Quảng Văn, rồi vào hầu Hoàng thượng ở trong đền chính, Hoàng thượng an ủy một hồi, rồi ngự viết một đạo sắc ban cho.
Sắc rằng:
“Trăm họ đâu cũng là binh, kho tàng đâu cũng là của, cho ngươi tùy tiện mà làm việc, nhất thiết giao phó cho ngươi cả đó”.
Ngài lạy từ đi ra, tiến binh đến thẳng núi Đồ Sơn, chiếm chỗ núi cao hạ trại, rồi dùng mẹo đánh phá, sai quân thủy chặn đường tải lương của giặc ở các cửa bể mà ngài mang một đạo binh, đi ngầm đàng mé sau núi, chặt cây cối mở lối đi, rồi xe súng lớn lên trên đỉnh núi, bắn vào trong trại giặc, giặc phải trốn đi nơi khác, lại chiếm giữ mạn sông Thương ở tỉnh Kinh Bắc, đắp thành Thọ Xương, dần dần lại chiếm được hết tự bờ sông trở sang bắc.
Bất giờ Hoàng Ngũ Phúc (Quận Việp) đang làm Thống lĩnh tỉnh Bắc, đem quân đánh nhau với giặc, đánh ba trận thì thua cả ba, vì thế giặc lây láng ra mọi nơi.
Năm Ất sửu, ngài lại phụng mệnh đốc chiến. Một hôm, ngài đang ngồi ở mé nam bờ sông Thương, cùng với một người khách uống rượu, bàn việc binh. Giặc ở bên kia bờ sông, bắn sang một phát, chết mất một tên lính hầu. Người khách xin ngài hãy tạm lánh đi. Ngài nói rằng:
- Ba quân hay dở, quan hệ về một ông tướng, nếu ta mà lui đi, thì giặc tất kéo sang sông ngay.
Bấy giờ giặc dàn chiến thuyền ở mé bắc, mà cắm cờ ở cửa sông để phòng quan quân tràn vào, ngài sai đắp lũy ở trên bờ sông, làm kế vững bền, một mặt thì sai kéo tự trên thượng lưu, di chuyển đường bộ kéo xuống, đến làng Đa Mai, huyện An Dũng, thủy bộ giáp hai mặt lại đánh. Giặc núng thế, muốn phá cừ để chạy ra ngoài, nhưng không ngờ cừ đã bị quân của ngài đóng kỹ lại tự bao giờ, không sao phá mà ra được, giặc phải bỏ cả thuyền chạy lên bộ, quan quân đuổi đánh, bắt được rất nhiều.
Vua được tin mừng lắm, thưởng cho 10 lạng vàng và vài trăm thẻ bạc, để tùy ý thưởng cho tướng sĩ. Vua lại viết bốn chữ “Văn võ toàn tài” ban cho.
Khi ấy lại có đám nghịch Ngũ chiếm giữ làng Ngọc Bội, đã được vài năm, thế cũng hùng dũng. Phan phái hầu là Nguyễn Phan đem quân đi đánh, bị giặc vây ở làng Hương Canh. Vua sai ông Quốc cữu cầm 18 cơ binh lên đánh giải vây, đánh hơn một tháng trời không được. Vua thấy mặt đông bắc đã hơi yên, mới triệu ngài về sai lên dẹp mặt Sơn Tây.
Khi ngài về vào chầu, vua ban cho một thanh gươm bảo rằng:
- Từ phó tướng trở xuống, hễ ai không tuân lời cho phép cứ chém còn cái áo gấm ban cho tướng trước sai đi, làm không nổi việc, cho người lên mà đòi lấy, hẹn cho 10 hôm thì phải xong việc.
Ngài từ vua mang quân đi. Khi đến gần chỗ đất giặc, ngài cưỡi voi trèo lên trái núi trông xem, thì thấy khu giặc ở có 15 ngọn đồn, liên tiếp với nhau mà chung quanh ngoài lũy thì toàn đồng lầy cả. Ngài mới truyền cho quân mỗi người phải mang một bó củi và một bó đuốc, nửa đêm kéo quân vào, sai ném củi xuống đồng lầy làm đường đi, rồi phá trộm lũy vào chính trại to của giặc, phóng hỏa đốt trại, rồi thì trong ngoài đánh áp vào, đốt luôn cả các đồn khác. Giặc đánh không nổi phải tan chạy, mới giải được vây cho Phan phái hầu.
Ngài ngồi trên đầu voi, thảo biểu dâng về tâu công, và sai người lại đòi áo gấm của tướng trước, rồi đem quân về chầu, bấy giờ mới có 6 ngày.
Vua mừng lắm, cho ngồi ăn yến cùng một chiếu với Việp quận công.
Vua bảo rằng:
- Nghịch Ngũ tuy nhiên dông dỡ, nhưng chẳng qua chỉ là giặc giữ nhà mà thôi. Còn như nghịch He, nó còn ra vào bất trắc lắm, ngươi phải lưu tâm mà đề phòng, vậy ngươi nên về ngay dưới mặt đông nam mới được.
Ngài lạy tạ, lập tức lên đường, về đến trại cũ ở làng Bối Thị huyện Vĩnh Lại, khao thưởng quân sĩ, nói phao lên rằng: cho quân ăn uống vui chơi năm ngày.
Bỗng dưng đến nửa đêm hôm thứ ba, nghe tiếng trống om sòm, thì ra ngài đã mang quân thủy đuổi đánh Quận He ở ngã ba sông Tranh. Các tướng cũng kéo quân bộ ra đánh. Quận He phải chạy trốn mất. Các tướng ai nấy mừng rỡ, nhưng không biết vì cớ gì mà ngài biết trước giặc đến mà đánh ngay được như thế.
Các tướng hỏi thì ngài bảo rằng:
- Ta mới tự kinh đô lại đây, giặc tất có người dọ thám. Hôm thứ nhất nó xem ta động tĩnh thế nào. Nó thấy ta nói phao lên cho quân ăn uống năm ngày, tất nó đồ[xvi] rằng quân ta trễ nhác. Sang ngày thứ hai, nó tất đem ngầm quân đến đánh quân ta, ngày thứ ba thì nó đến nơi, cho nên ta đón đường trước mà đánh. Đó là phép binh nhử cho người đến mà đánh đấy.
Các tướng ai cũng chịu là mẹo cao. Ngài lại sai quân chia giữ các nơi xung yếu và sức cho dân phải giữ giúp cho nhau, hễ có giặc phải báo quan ngay, để đem binh đến tiễu[xvii]. Từ đấy thế giặc mỗi ngày một kém, dần dần quân thưa lương cạn.
Một hôm, Quận He sai người cầm giấy lại trình ngài, trong giấy ra một câu đối rằng:
- Ngọc tàng nhất điểm xuất vi chúa, nhập vi vương[xviii].
玉 藏 一 點 出 爲 主 入 爲 王
Ngài lập tức viết lại đối rằng:
- Thổ tiệt bán hoành thuận giả thượng, nghịch giả hạ[xix].
土 截 半 橫 順 者 上 逆 者 下
Quận He trông thấy, vừa sợ vừa thẹn, không dám đánh nhau nữa. Mới sai người đem vàng bạc hối lộ cho người quyền thần phủ chúa Trịnh tên là Đỗ Thế Giai, giả tiếng xin ra hàng, mà kỳ thực là muốn dùng chước hoãn binh. Đỗ Thế Giai nhận lễ, nói với chúa Trịnh. Chúa Trịnh tin lời cho hàng, và phong cho Quận He làm Ninh đông hầu, truyền đem thủ hạ lại chầu.
Phạm Đình Trọng khăng khăng một mực xin đánh, thề không chịu cùng với giặc sống ở đời. Có quan Thự phủ nhân có hiềm riêng với ngài, gièm pha với chúa Trịnh, để chúa Trịnh triệu ngài về kinh. Ngài thì biết cơ Quận He trá hàng, mới đóng quân lại ở đồn Bôi Thị, và chiêu mộ thêm quân cường tráng các huyện Thanh Hà, Tứ Kỳ, Thượng Hồng, Vĩnh Lại, chia làm hai cơ nghĩa binh, đặt tên gọi là cơ Thanh Kỳ và cơ Hồng Vĩnh, sai hai tướng thủ hạ thống lĩnh hai cơ ấy.
Quan Thự phủ gièm với chúa Trịnh rằng:
- Phạm Đình Trọng chẳng khác gì Huyền Đức, mà Thanh Kỳ thì là Quan Võ, Hồng Vĩnh thì như Trương Phi. Nay ông ta cầm đại binh ở ngoài, hoặc sinh bụng bất trắc thì làm thế nào?
Chúa Trịnh vốn tin ngài, không nói gì đến, lại đưa cho một bài thơ để ngài yên tâm.
Về sau Quận He quả nhiên không ra hàng, cướp bóc vùng đông nam lại càng nhũng lắm. Triều đình sai Quận Côn lĩnh binh đi đánh. Khi sang qua sông Nhị Hà, đến trạm Điên Dao, bị giặc đánh lừa, bắt sống được Quận Côn, chư quân tan vỡ mất cả. Giặc bắt triều đình phải chuộc Quận Côn 300 lạng bạc. Kinh thành nhao nhác cả lên.
Chúa Trịnh lại sai ngài đi đánh. Ngài lập tức phái binh các đạo và quân nghĩa binh tiến tiễu, đánh nhau ở Gia Phúc, Quảng Xuyên, An Ninh, Tòng Hóa trận nào cũng được, giặc phải trốn đi nơi xa, dân vùng ấy lại được yên ổn.
Khi trước ở bến Hồng Đàm châu Vạn Ninh, là một nơi rất hiểm ở miền bể đông. Có đám giặc Quan lan, tụ đồ đảng giữ chỗ ấy làm sào huyệt, cướp bóc các thuyền buôn đường bể, việc buôn bán ta với Tàu đọng cả lại. Quan Tổng đốc Quảng Đông không sao trừ được, nhiều lần đưa giấy sang cho quan Tuần phủ Yên Quảng, hợp binh tiễu giặc, đánh luôn mấy năm vẫn chưa xong. Khi ấy ngài đi tuần mặt bể đông, sai thuộc tướng là Vinh thọ hầu đem chiến thuyền đóng ở châu Vạn Ninh, nói phao lên rằng đánh giặc, hẹn ngày với quan Tàu để hợp tiễu[xx]. Mà ngài thì mật đem đội thuyền từ dưới núi Đề Thi, ra đường Bạch Long Vĩ, đến thẳng bến Hồng Đàm, đánh phá trại giặc, bắt được tướng đầu đảng và 7 người đồ đảng, đóng cũi nộp cho quan Tàu. Ngài thân đến chơi với quan Trấn thủ Long Môn, người Tàu trông thấy ngài lấy làm lạ lùng, tiếc thay cho ngài là đại tài mà sinh về nước nhỏ, chính nhân mà thờ người quyền thần.
Quan Tàu tâu việc ấy lên vua Tàu. Vua Tàu khen nước Nam có người giỏi, yên được cõi ngoài ven, sai quan sang ban thưởng cho ngài áo đai, trăm tấm gấm, mười lạng vàng và phong làm Thượng thư. Chúa Trịnh cũng phong cho ngài làm Binh bộ Thượng thư, bởi thế gọi là Thượng thư hai nước.
Sực lại có tin Quận He quấy nhiễu các huyện Thần Khê, Thanh Lan, dân sự tàn hại. Chúa Trịnh lại sai ngài đi đánh. Ngài đi gấp đường đến huyện Ngự Thiên, đang cùng bàn mưu với Quận Việp, xảy đâu giặc kéo đến vây kín làng ấy. Quận Việp lo phát phiền, một đêm mà đầu bạc trắng xóa. Ngài sai chư quân dàn trận, cầm giáo trông về phía giặc. Một mặt sai quân đắp lũy. Ngài ngồi ngay trong trận thảo tờ hịch, sai đòi tướng tá lại hội. Đang khi ấy, giặc bắn chết một tên lính cầm nghiên mực, ngài sai tên khác thay vào, mà ngài thì cứ ngồi vững vàng như không, trỏ bảo các quân. Giặc thấy vậy không dám đến gần, phải tháo vây mà chạy. Ngài đem quân các đạo, thừa thế đuổi đánh, phá được giặc ở sông Lộng Khê (về huyện Phụ Dực). Lại đuổi đến làng An Vệ, huyện Quỳnh Côi vây bọc được giặc hai ba tầng. Quận He sai quân bó nhiều đình liệu[xxi], nói phao lên rằng đến đêm thì đốt đình liệu mà đánh ra. Chiều tối, giặc bỗng nhiên bỏ cả đình liệu thúc ngựa kéo ra, quân sĩ không ai dám chống lại, chỉ có một mặt của ngài vây mé ngoài thì giặc không dám ra cửa ấy.
Về sau Quận He trốn về Nghệ An, hợp đảng với nghịch Diên, quấy nhiễu trong vùng Thanh, Nghệ, ngài đem quân vào Nghệ, đốt phá được trại giặc ở làng Hưng Lãm, rồi đánh tràn vào đến Bạch Đường, Bào Giang. Ngài suất bộ tướng là Quận Trân làm tiên phong, sai Quận Viên làm hậu quân, đuổi giặc mãi đến huyện Quỳnh Lưu, qua làng Hoàng Mai, ở đấy có một trái núi rậm, ngài đồ rằng giặc tất núp vào trái núi ấy, mới đổi tiền quân làm hậu, hậu quân làm tiền, sai vây bọc chung quanh dưới chân núi. Bấy giờ Quận He thế lực đã kiệt lắm rồi, biết thân không còn thể nào chạy thoát, mới đến tiền quân xin hàng.
Khi trước Quận Trân cầm tiền quân, vốn quen nhau với Quận He. Không ngờ tiền hậu mới đổi, té ra Quận Viên cầm tiền quân. Quận Viên mới sai đóng cũi giải nghịch He về Kinh sư.
Từ đấy ngài mới thành công trở về, được gia chức là Thiếu bảo, phong làm Dương võ tuyên lực công thần ban cho 12 xã dân và 150 mẫu ruộng để làm ruộng thế nghiệp.
Năm Cảnh Hưng thứ 12, ngài phụng mệnh trấn thủ tỉnh Nghệ An và châu Bố Chính. Một khi ngài đang ngồi coi việc trên phủ đường bỗng dưng có một con rắn to tự ngoài ra sân bò vào, quân sĩ toan đánh, ngài không cho đánh, thử để xem ra làm sao, thì thấy con rắn bò quanh chỗ sập ngài ngồi, rồi leo lên tràng áo ngài. Ngài cứ ngồi nghiễm nhiên không động, một lát nó lại bò xuống, rồi bò vào hồ Bán nguyệt đi mất.
Ngài có ý buồn rầu, biết là cái điềm nó đến đón mình. Ngài mới đi khắp trong thuộc hạt, khuyên dân làm ăn yên nghiệp.
Một hôm, ngài đang nằm trong màn, đang đêm bỗng “dạ” to lên một tiếng, cả nhà giật mình. Hỏi cớ làm sao thì ngài nói rằng:
- Thượng đế sai đòi ta về rồi.
Chúng ngạc nhiên, chưa biết thế nào. Đến ngày mồng một tháng giêng năm sau, là năm Giáp tuất, ngài mặc áo chầu ra giữa phủ đường, ngoảnh mặt về bắc lễ vọng Thiên tử, rồi lên giường nằm, tự nhiên thiếp dần đi rồi mất.
Vua được tin thương xót vô cùng, sai quân thủy bộ hộ tống linh cữu về làng ngài an táng, và sai quan Thượng thư là Trần Cảnh đến nhà dự tế.
Chúa Trịnh cũng sai Thượng thư là Nguyễn Công Thái đến tế, và tặng 16 chữ: “Phủ dân, tiễu khấu, cố bản, an biên, ái quốc, trung quân, hoàn danh, cao tiết”. Lại gia tặng chức Thái phó, phong làm Hải quận công thượng đẳng phúc thần, sai lập đền thờ ở làng Giáp Sơn.
Chúa Trịnh lại ban cho một câu đối thờ rằng:
Cái thế anh hùng kim cổ thiểu.
Tại nhân công đức địa thiên tràng.[xxii]