Chương 3: Sống càng lâu càng đi được xa

Mấy cây dù đen cẩn thận hộ tống cô gái quần trắng đi ra mấy chục bước, lên một chiếc xe ngựa chờ sẵn ở đó.

Cậu nhóc đi ra từ quán dầu vừng bị sụp vẫn nhìn không chớp mắt vào cô ta. Mãi cho đến khi cô gái vén rèm vào xe đi, nó mới nói một câu đầy cảm thán: "Đẹp thật!" Vị Kiếm sư áo đen ngã ngồi cách nó không xa phía trước lúc này cũng mới hồi phục lại tinh thần, nghĩ đến hàm ý của ba chữ ngắn ngủi của cô gái quần trắng, một cảm giác vui mừng to lớn và xúc động chết lặng ngay lập tức tràn ngập cơ thể y. "Đẹp?" Tiếp đó y mới bắt đầu suy nghĩ về lời nói của cậu nhóc sau lưng. Vẻ đẹp của Dạ Ty Thủ không phải bàn nhưng đối với dạng người tu hành kiệt xuất quốc gia khiến người ta chỉ có thể thán phục như cô ta, chỉ dùng "Đẹp" để miêu tả dung mạo thôi cũng đều giống như một kiểu khinh nhờn.

Tiếng vó ngựa vang lên, chiếc xe ngựa chở nũ ty thủ của vương triều Đại Tần liền xuyên vào trong màn mưa bụi, biến mất không còn dấu vết.

Đa số các Kiếm Sư áo đen nhanh chóng lặng lẽ biến mất trên đường phố, giống như khi đến.

Phố xá mơ màng trong mưa bụi rốt cục đã hoàn toàn bừng tỉnh. Càng lúc càng có đông người đi ra cửa nhìn thử xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Thế nhưng chỉ trong thời gian mấy hơi thở, âm thanh kim loạt chà sát mặt đất rầm rập liền che lấp cả tiếng mưa rơi cùng tiếng sấm.

Trong nháy mắt, vô số chiến xa liền ùa tới, tạo thành một bức tường sắt dài hẹp, cản trở tầm mắt của bọn họ. "Nhóc gọi là Đinh Trữ, ở quán rượu ngõ Ngô Đồng đúng không? Sao lại chạy tới hàng dầu vừng này?" Trong rạp che mưa đơn sơ dựng tạm, một vị quan trung niên khá mập, đầu hơi hói đang đưa một tấm vải bố khô cho cậu nhóc đã ướt gần hết cả người và hỏi.

Vẻ mặt vị quan này nhìn qua cực kỳ dễ gần, vì vội vã gấp gáp nên trên trán thậm chí còn có vệt bóng dầu, khiến người ta càng cảm giác bình thường. Nhưng tuyệt đại đa số quan quân xung quanh đều cố gắng bảo trì khoảng cách nhất định với hắn, bởi vì chỉ cần là người am hiểu về Trương Lăng chút cũng đều biết gã là Mạc Thanh Cung.

Một trong các "Ác cẩu" kinh nghiệm phong phú của Thần Đô Giám. "Ác cẩu" tuyệt đối không phải là cách gọi ca ngợi gì mà ẩn hàm rất nhiều ý tứ nặng nề. Ngoại trừ hung ác, khứu giác nhanh nhạy ra, thông thường còn có nghĩa sau lưng có đủ nhiều nanh vuốt và chỗ dựa đủ vững mạnh. Đối với giống "Ác cẩu" dị thường khó chơi, lại không thể cầm gậy đập này biện pháp tốt nhất là tránh xa xa mà nhìn.

Như lúc này đây, gã chỉ mới đuổi tới, hơi thở còn chưa ổn định nhưng trong tay đã có hơn mười cuốn hồ sơ án, trong đó một cuốn có ghi chép rõ ràng về thân phận của cậu nhóc khiến người ta có phần nghi ngờ này.

Cậu nhóc tên Đinh Trữ này lại chẳng hề cảm nhận được sự đáng sợ của viên quan trung niên khá mập có vẻ rất dễ nói chuyện này. Nhóc vừa tiện tay dùng miếng vải bố mà Mạc Thanh Cung đưa cho lau sạch bùn đất trên mặt vừa dùng ánh mắt tò mò đánh giá chiến xa có hình đầu hổ âm u cùng hoa văn hình sói trên chuối kiếm của kiếm sĩ áo xanh đứng trên chiến xa. Nó không trả lời ngay câu hỏi của Mạc Thanh Cung mà còn hỏi ngược lại: "Đây chính là Hổ Lang Quân của Đại Tần ta hử?" Mạc Thanh Cung xoa xoa giọt mồ hôi trên trán, đáp lại: "Đúng vậy." "Ai ở trong cái khu nhà nhỏ đó thế?" Vân vê hết bụi đất và cáu bẩn trên mặt xong, càng để Đinh Trữ lộ vẻ thanh tú và thông minh, nó ôm vẻ mặt thành thật nói: "Lại khiến cho phải huy động người đông như vậy?" Mạc Thanh Cung càng lúc càng cảm thấy Đinh Trữ thú vị. Phong thái bình tĩnh trên người đối phương cũng khiến lão bất chợt bị cuốn hút. Bình tâm lại hơn, trong ánh mắt lão liền dần toát lên vẻ kỳ lạ. "Nhóc nghe đến Kiếm Lô chưa?" Lão không có nổi nóng mà còn ôn hòa hỏi lại. "Kiếm Lô nước Triệu?" Đinh Trữ thoáng ngẩn ngơ. "Đúng vậy." Mạc Thanh Cung ôn tồn nhìn vào nó, kiên nhẫn nói: "Ở giai đoạn đầu của cuôc chiến giữa vương triều Đại Tần ta và nước Triệu, nhân tài thiên hạ đều biết rõ chốn tu hành mạnh nhất của nước Triệu không phải Thanh Dương Kiếm Tháp mà là hàng rèn sắt nhìn rất tầm thường kia. Tám gã đệ tử chân truyền của Kiếm Lô đều có thể một kiếm tàn sát cả thành. Nước Triệu đã bị triều ta diệt mười ba năm nhưng những tàn dư Kiếm Lô này vẫn luôn là gai trong cổ của vương triều Đại Tần ta, một ngày không nhổ là một ngày không thể an tâm. Hôm nay phải đền tội chính là Triệu Trảm, học trò thứ bảy của Kiếm Lô." "Thảo nào..." Đinh Trữ thông qua khe hở giữa chiến xa, nhìn vào khu nhà nhỏ đã không còn sót lại gì, không ít người tu hành đang cẩn thận lật giở mỗi một góc nhỏ, nó như nghĩ tới cái gì nói.

Mạc Thanh Cung mỉm cười: "Giờ nhóc đã hiểu vì sao vừa bắt đầu ta đã hỏi nhóc mấy vấn đề vụn vặt rồi chứ?" Đinh Trữ nghiêm túc khẽ gật đầu: "Tay chân nguy hiểm của địch quốc ẩn nấp nơi đây, dĩ nhiên phải kiểm tra kỹ càng tất cả người phụ cận, đặc biệt là với kẻ lẽ ra không nên ở đây như tôi lại càng phải hỏi cho rõ ràng." Mạc Thanh Cung khẽ vuốt cằm tán thưởng: "Vậy bây giờ nhóc có thể trả lời ta vấn đề kia được chưa?" Đinh trữ cười cười, nói rằng: "Thật ra là do hàng nhà ta ở gần đây hai ngày nay không buôn bán gì nên đành phải đến đây, ai ngờ lại bị mưa to giữ chân ở đây, càng không ngờ là lại gặp chuyện như vậy." Mạc Thanh Cung trầm mặc một lúc, sau đó tiện tay lấy cây dù bên cạnh đưa cho Đinh Trữ, "Nếu là thế, nhóc có thể rời đi." Đinh Trữ có phần ngạc nhiên, thành thật hỏi: "Thế thôi à?" "Còn không nỡ đi sao? Đừng tự tìm phiền toái!" Mạc Thanh Cung vừa bực mình vừa buồn cười quát lớn, khoát tay ý bảo cậu nhóc rời đi nhanh chút. "Thế ô của ngài?" "Nếu ta không đến lấy thì cho nhóc." . . .

Nhìn theo bóng lưng Đinh Trữ, sắc mặt Mạc Thanh Cung dần trở nên lạnh lùng, trầm ngâm một lát, lão khẽ quát một tiếng về hướng sau rạp che mưa: "Gọi Tần Hoài Thư lại đây!" Không lâu sau tiếng quát của hắn, một người trẻ tuổi gầy gò mặc áo xanh bước vào trong rạp che mưa tạm thời này.

Mạc Thanh Cung khẽ ngẩng đầu nhìn người thanh niên mới tới này, ngón tay lão nhẹ nhàng gõ lên cuốn hồ sơ án mở rộng trước mặt, gõ liên tục hơn mười cái mới hòa hoãn hỏi: "Thằng nhóc này tên Đinh Trữ ở ngõ Ngô Đồng này, cuốn sổ này là do ngươi soạn, ngươi còn có ấn tượng gì không?" Người thanh niên gầy gò đứng thẳng, cúi đầu kính cẩn, không kiêu không nịnh nói: "Có." Mạc Thanh Cung lạnh lùng nhìn hắn một cái, trầm giọng nói: "Theo như cuốn sổ này thì xuất thân của nó cùng người dì nhỏ bán rượu có thể nói là sạch sẽ đến cực điểm. Nhưng mấu chốt là ở chỗ sao khi xưa ngươi lại soạn ra cuốn sổ này?" Người thanh niên tựa như đã sớm đoán được lão sẽ hỏi vấn đề này nên trả lời không hề chần chừ: "Tên nhóc này quả thật là người Tần chúng ta không thể nghi ngờ, lai lịch mấy đời bên trên cũng hết sức rõ ràng. Sở dĩ thuộc hạ soạn ra cuốn hồ sơ án này là vì Phương Hầu phủ từng có tiếp xúc với nó. Phương Hầu phủ từng đặc biệt mời Phương Tú Mạc xem xét nó." Mạc Thanh Cung khẽ giật mình: "Phương Hầu phủ?" Người thanh niên nhẹ gật đầu: "Tên nhóc thửa nhỏ sau khi cha mẹ cùng nhiễm bệnh đồng thời mất đi liền do dì nhỏ nó trông nom. Dì nhỏ nó có một quán rượu ở ngõ Ngô Đồng, quán dù nhỏ nhưng rất nổi tiếng. Người của Phương Hầu phủ tới quán đó mua rượu, phỏng chừng là vì thấy nó có chút tiềm chất nên mới mời Phương Tú Mạc tự mình đến xem qua." Mạc Thanh Cung thoáng nhíu mày, ngón tay bất giác lại gõ lên hồ sơ án.

"Sau đó thì sao?" Lão trầm ngâm một lát lại hỏi.

Người thanh niên gầy gò chăm chú đáp lại: "Sau khi Phương Tú Mạc quan sát thì Phương Hầu phủ không còn tiếp xúc gì với thằng nhóc đó. Thuộc hạ suy đoán chắc là Phương Tú Mạc cảm thấy nó không thể trở thành người tu hành. Hơn nữa nó có thân phận thấp kém, xuất thân lại không có chút đáng ngờ, cho nên thuộc hạ liền chỉ làm theo lệ soạn sổ rồi cất vào kho, không phí công đi điều tra thêm làm gì." Trong ánh mắt Mạc Thanh Cung lần đầu tiên lộ ra vẻ khen ngợi, "Ngươi làm không tệ." Người thanh niên sắc mặt vẫn như cũ không có gì thay đổi, trầm ổn nói: "Thuộc hạ chỉ làm hết sức trách nhiệm của mình thôi." Mạc Thanh Cung nghĩ gì đó, hỏi: "Thứ rượu của cái quán cỏn con ở cái chỗ như ngõ Ngô Đồng đó có thể lọt vào mắt Phương Hầu phủ ư?" Người thanh niên lắc đầu, "Sở dĩ quán rượu nhà nó nổi tiếng chỉ là bởi vì dì nhỏ nó cực đẹp." Mạc Thanh Cung hoàn toàn ngạc nhiên.

Người thanh niên gầy còm vẫn không ngẩng đầu nhưng khóe miệng lại hiện lên ý cười khó phát giác được. Y thầm nghĩ đại nếu nhân ngài thấy tận mắt cô nàng đó thì e rằng sẽ càng thêm kinh ngạc.

Mạc Thanh Cung cười cười như tự giễu, rồi đột nhiên nhìn chăm chú vào gã, nói khẽ: "Lần này Linh Hư Kiếm Môn mở sơn môn, ta cho ngươi vào danh sách tiến cử." "Đại nhân!" Nãy giờ người thanh niên gầy còm vẫn luôn bảo trì tư thế kính cẩn, trầm ổn, nhưng chỉ một câu nói nhẹ nhàng này của Mạc Thanh Chung đã khiến gã run rẩy cả người như ngũ lôi oanh đỉnh, không thể kìm được bật ra một tiếng kêu kinh hãi.

Vẻ mặt Mạc Thanh Cung vẫn không thây đổi nhiều, lão vỗ vỗ bả vai người thanh niên tâm tình đang kích động này, từ tốn nói: "Trước khi ngươi đến Linh Hư Kiếm Môn tu hành, hãy giúp ta một chuyện cuối cùng. Giúp ta tra xét lại lần nữa xuất thân lai lịch của nó và người bên cạnh, giúp ta điều tra tỉ mỉ Phương Tú Mạc đã đưa ra nhận xét gì về nó." . . .

Mọi con phố ở Trường Lăng đều giống như lời Triệu Trảm đã nói, đều thẳng đuồn đuột, cắt ngang cắt dọc. Mà ngay cả các tòa nhà cũng phân bố đều đặn khắp nơi trong thành.

Giờ phút này, ở một tòa vọng lâu gần rạp trú mưa của Mạc Thanh Cung nhất, phía sau tấm rèm che mưa lớn có đặt một chiếc ghế mây. Trên ghế có một ông lão mặc áo quần phổ thông trắng tinh đang ngồi, tóc trắng lưa thưa rễ sâm rủ xuống trên bờ vai.

Phía sau ông là một gã thanh niên dáng người cao to, mặc áo vải màu vàng.

Người này có khuôn mặt nho nhã, thần thái bình thản ôn hòa, thuộc dạng chỉ gặp một lần đã dễ sinh hảo cảm. Lúc này hai tay gã đang rủ xuống trên lưng ghế mây, tỏ ra khiêm tốn và thân mật. "Con đang nghĩ gì?" Ông lão thu hồi ánh mắt hướng về nơi xa, mỉm cười chủ động hỏi.

Người thanh niên áo vàng bước nhẹ nhàng đến bên cạnh ông lão, lễ phép nói: "Thưa thầy, Dạ Ty Thủ đã có thể một mình giết chết Triệu Trảm chứng tỏ rằng cô ta ít nhất đã bước qua cánh cửa Thất cảnh trung phẩm. Có điều con không rõ Trường Lăng hiện thời ngoại trừ Dạ ty Thủ ra, vẫn còn có người có thể một mình giết chết Triệu Trảm, vì sao bệ hạ nhất định phải gọi Dạ Ty Thủ đang tu hành ở hải ngoại xa xôi trở về?" Ông lão mỉm cười, duỗi ngón tay như cành khô ra, chỉ ra phía ngoài trước rèm che mưa: "Con nhìn thấy cái gì?" Người thanh niên áo vàng cố gắng tập trung suy nghĩ quan sát, nhưng chỉ thấy phố xá bằng phẳng trong cơn mưa như trút. Gã thoáng áy náy đáp: "Đệ tử đần độn, mong thầy chỉ điểm." "Con nhìn gần quá nên con chỉ thấy đường phố trước mặt này, con nhìn không tới biên giới Trường Lăng." Ông lão híp mắt lại, từ từ nói: "Con phải biết rằng tòa thành này là đô thành duy nhất trên đời không có tường thành bên ngoài. Sở dĩ không cần tưởng bảo vệ vì kiếm của mỗi người Tần chúng ta chính là tường thành." Bộ mặt người thanh niên áo vàng dần nghiêm nghị, trầm mặc không lời. "Bệ hạ hoặc là Lý Tương, nhìn xa hơn con nhiều lắm." Ông lão hiền lành liếc sang người thanh niên một cái, lại nói với chút trào phúng, "Triệu Dạ Ty Thủ trở về ít nhất có hai tầng dụng ý. Tầng một là dù bên trong Trường Lăng không thiếu cường giả triều đình có thể một mình giết Triệu Trảm nhưng có thêm một người thì lại thêm một phần uy thế. Trước kia, tuy Dạ Ty Thủ đã có uy danh rất cao nhưng đại đa số người vẫn nghi ngờ cô ấy thậm chí vẫn chưa bước vào Thất cảnh. Ngày nay, Dạ Ty Thủ một kiếm giết chết Triệu Trảm sẽ là tiếng sấm vang rền nhất. Bức thành vô hình của Trường Lăng ta liền dày thêm một phần. Một tầng dụng ý khác chính là, Dạ Ty Thủ đã ở hải ngoại tu luyện suốt nhiều năm, kể cả chúng ta cũng có hoài nghi trong lòng. Hoài nghi có phải Dạ Ty Thủ được được bệ hạ tín nhiệm hay không, tứ là bị lưu đày. Giờ Dạ Ty Thủ bỗng nhiên trở về trừ giặc, như vậy chỉ có thể nói rằng liên kết giữa bệ hạ và Dạ Ty Thủ vẫn luôn hết sức mật thiết, lời đồn đại và nghi ngờ tự sụp đổ." "Lý Tương quả thật nhìn xa hơn con nhiều lắm." Người thanh niên áo vàng khẽ than.

Lúc gã buông ra hai chữ "Lý Tương", vẻ mặt vừa khâm phục vừa tự thẹn.

Lý Tương là một cách gọi tôn quý.

Vương triều Đại Tần có hai vị thừa tướng, một vị họ Nghiêm, một vị họ Lý.

Hai vị thừa tướng này tuổi tác, dáng vẻ, sở thích, sở trường các mặt đều khác biệt nhưng đều thần bí và mạnh mẽ.

Bọn họ thần bí và mạnh mẽ ở chỗ tuyệt đại đa số địa phương trong tòa thành Trường Lăng này đều bị che phủ ở dưới bóng của bọn họ, ở chỗ tất cả mọi người đều khẳng định bọn họ là người tu hành cường đại, nhưng lại không có ai thấy bọn họ ra tay, thậm chí không có mấy người có tư cách thấy được gương mặt thật của bọn họ.

Thực sự mạnh mẽ ở chỗ có rất nhiều người ở trên đời đã mạnh lắm rồi, khiến cho người ta sợ hãi cũng chỉ là thuộc hạ trung thành của bọn họ.

Kẻ quá mạnh thường sẽ không có bạn bè.

Thế nên, ở Trường Lăng, phần đông khi đề cập đến Nghiêm Tương hoặc Lý Tương thì cảm xúc thường là kính sợ, sợ hãi hoặc căm hận, hiếm có vẻ thực sự khâm phục như trong mắt tên thanh niên áo vàng này. "Cách nhìn của thầy hẳn không sai. Trong khoảng thời gian này, bệ hạ lấy việc tu luyện làm chính. Loại chuyện này hẳn là Lý Tương làm chủ... Có điều Lộc Sơn Hội Minh sắp tới mà Dạ Ty Thủ trở về, ông ta hẳn là còn có nhiều ý định nữa." Sau khi than nhẹ một tiếng, thanh niên áo vàng suy tư một lát rồi nói tiếp.

Ông lão hài lòng nở nụ cười.

Theo cánh nhìn của lão, người học trò này của lão quả thực không coi là tư chất đặc biệt thông minh nhưng tính tình của nó thực sự giống đường phố Trường Lăng, đều thẳng thắn, bằng phẳng; không thù hằn gì bất cứ ai, ôm thái độ nhìn người là để học tập sở trường của họ. Người như vậy ở trong vương triều Đại Tần gió giục mây vần sẽ sống được lâu, đi được xa.

Nhìn sự vật tạm thời không đủ xa không sao cả. Chỉ cần có thể đi được đủ xa thì sự vật nhìn qua sẽ nhiều hơn người khác . . .

Trận mưa to hiện thời không thấy có ý ngừng. Mặt đường khắp thành Trường Lăng đọng lại một lớp nước mỏng.

Đinh Trữ mặt đã lau chùi sạch sẽ, trên người vẫn mặc quần áo tràn đầy vết bẩn đang bước dài bước ngắn đi vào một con ngõ trồng rất nhiều cây ngô đồng.