Thái giám bên cạnh khẽ nói: "Hoàng Thượng, bên ngoài có quan Khâm Thiên Giám xin được cầu kiến".
"Ồ, nửa đêm mà lại cầu kiến chắc là có chuyện quan trọng bẩm báo, mau cho vào". Tống Đế cân nhắc một chút rồi nói.
"Dạ. Cho mời Khâm Thiên Giám Tùng Vân chân nhân vào ." Thái giám cất lên tiếng hô the thé.
Cánh cửa thư phòng mở ra, một viên quan có dáng tiên phong đạo cốt bước vào. Áo bào khá đặc biệt vì đây không thuần là áo quan đại Tống mà áo lai quan chức và đạo bào của Đạo Gia có thêu trời, trăng, tinh tú.
Tùng Vân chân nhân vốn là một vị đạo trưởng của Đạo Gia sinh ra ở Hà Bắc, có duyên gặp anh em Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa, thấy mệnh cách cả hai đều là Đế Vương nên xin theo phò, nhận chức quan Khâm Thiên Giám - tức chức quan coi sóc thiên tượng chức năng như các nhà Thiên Văn học thời hiện đại.
Tống Đế thấy Tùng Vân chân nhân bước vào thì mỉm cười đứng dậy hỏi: "Đêm đã khuya, chẳng hay chân nhân có điều gì cấp tốc bẩm báo?"
Tùng Vân chân nhân phất cây phất trần qua một bên, hai tay chắp lại tâu: "Muôn tâu bệ hạ. Mười ngày nay, bần đạo coi tinh tượng bốn phương thấy có nhiều điềm lạ nghĩ là việc quan trọng nên muốn bẩm báo cho ngài.
Phía Bắc và Tây Bắc có hiện tượng Đế Tinh sáng chói trở lại, huyết hồng ngàn dặm. Hoàng Thượng lưu ý nhà Liêu và nhà Tây Hạ chuẩn bị xâm phạm nước ta, dự phán là đầu xuân sẽ có can qua. Ngược lại, tinh tượng phía Tây, Tây Nam đất Thổ Phồn, Đại Lý và Đông Bắc Cao Ly thì khá ổn định nên không đáng lo.
Nhưng, tinh tượng phương Nam là biến đổi khó lường. Cách đây hơn 10 ngày bần đạo thấy thiên tượng quần tinh vẫn lạc, ác giao thôn long, minh phượng thét gào, khí số Đại Cồ Việt đứt đoạn loạn lạc nhưng sau lại thấy cảnh tượng đó giống như ảo ảnh, biến mất không dấu tích.
Thay vào đó là cảnh tượng ẩn tinh phát sáng thành mặt trời mới mọc, quần tinh rực rỡ trở lại chứng tỏ khí số nước này có dấu hiệu hồi phục như ánh bình minh. Có lẽ trấn yểm của Mã Viện tướng quân khi xưa và của Cao Biền đại sư mấy trăm năm trước đã bị tổn hại khiến Long mạch nước này có cơ hội vẫy vùng.
Bần đạo kiến nghị Hoàng Thượng nên cho người điều tra rõ ràng , một mặt cho người bí mật tiến đến gia cố phong ấn, một mặt phái người thủ tiêu Giao chỉ Vương hoặc ít nhất có biện pháp kiềm chế phòng bị. Tuy bây giờ nước này quá yếu, dân ít, tài nguyên không có bao nhiêu nhưng hai ba mươi năm sau thì chưa biết thế nào. Bần đạo xin hết".
Triệu Quang Nghĩa nghe vậy thì trầm ngâm. Hắn đang nhớ lại những ấn tượng của mình về nước nhỏ vùng biên thùy phía Nam Đại Tống. Giao Chỉ châu vốn thuộc về người Hán hơn 1100 năm trước, dân số đâu đó khoảng hai ba trăm vạn chủ yếu là người Việt, nhân lúc cuối thời Đường loạn lạc, đất nước chia năm xẻ bảy loạn Ngũ Đại Thập Quốc đã dấy binh tự lập thành lập Đại Cồ Việt quốc.
Bảy năm trước, lúc ấy Đại Tống còn chưa có thống nhất, loạn lạc khắp nơi, thủ lĩnh người Việt lúc đó là Đinh Bộ Lĩnh đã sai con vượt biển vòng qua nhiều quốc gia đến Biện Kinh để xin xưng thần với anh em hắn. Điều này cũng chứng minh tầm nhìn xa của người thủ lĩnh này khi đặt cược vào Đại Tống.
Phần vì lúc ấy Đại Tống còn bận đánh đông dẹp Bắc không có thời gian chú ý, phần vì có người đến từ nơi xa xôi thần phục, rất có lợi cho uy danh nên anh trai hắn đã thuận theo chấp nhận và phong cho người thủ lĩnh họ Đinh trở thành Giao Chỉ Vương.
Đi sứ lúc ấy là người con trai trưởng Đinh Khuông Liễn, cùng năm sinh với hắn. Người này tướng mạo khôi ngô tuấn tú chính là một bậc kiêu hùng. Năm ấy, hắn và người này có nhiều lần trao đổi bàn luận, tuy kiến thức không quá sâu sắc nhưng cũng coi như toàn diện. Người Việt từ xưa đến nay rất giỏi đánh nhau bằng cả hai đường thủy, bộ nhưng vẫn còn lạc hậu về mọi mặt. Quân lực cũng không nhiều, lại không có quân đội thường trực nên cũng không đáng lo.
Triệu quang Nghĩa chợt nghĩ đến việc gì đó nên cấp tốc ra lệnh: " Cho gọi Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù đến đây gặp trẫm"
"Dạ, tuân lệnh hoàng thượng". Thái giám bên cạnh ứng tiếng. Triệu Quang Nghĩa quay sang Tùng Vân chân nhân hỏi rằng: " Theo chân nhân, ý nghĩa của hai thiên tượng đó như thế nào?".
"Tâu bệ hạ. Bần đạo cho rằng thiên tượng quần tinh vẫn lạc chứng tỏ một số quan chức nước này đột ngột vẫn lạc. Ác giao thôn long chứng tỏ có người cầm quyền to tiến hành đảo chính, giết Vương. Minh Phượng thét gào chứng minh hậu cung của họ có biến động. Khả năng cao là chính biến có sự liên thủ của hậu cung và tướng lĩnh bên ngoài, thay triều đổi đại".
Tống Đế gật đầu. Nếu Giao Chỉ Vương tượng trưng cho rồng thì ác giao tượng trưng cho đại thần hoặc người trong Vương tộc, khả năng cao chủ mưu là Đinh Khuông Liễn. Chẳng lẽ người này nhịn không nổi nữa nên đã thí cha soán ngôi? Nói tới đây hắn chợt nhớ ra. Ngay chính bản thân hắn cũng đã nhịn không nổi phải thí anh đoạt ngôi thì sao người kia không thể làm được cơ chứ. Cùng một tuổi thường có sự tương đồng về số mệnh hay sao?
Nhưng ác giao thì lại có nghi vấn. Con trai thay thế cha lẽ ra là thuận thiên nên gọi là giao long chứ sao lại là Ác giao. Phải chăng lên ngôi mà không theo con đường chính thống thì đều gọi là ác giao. Hắn chợt nghĩ, không biết mình có nên tìm cái cớ này mà thu hồi Giao châu về lại Đại Tống không nhỉ?
Minh Phượng thét gào. Theo như hắn đọc sách thì bình thường Vương Hậu đều được gọi là Phượng. Phượng chính thống là Hỏa Phượng. Minh Phượng là một nhánh chim Phượng đọa lạc rơi vào địa ngục , cũng tượng trưng cho sự phản bội.
Phải chăng chính biến cung đình của nước này lại có liên quan đến hậu cung, hay là Đinh Khuông Liễn chơi màn mẹ con thông dâm hại cha ruột. Khặc khặc. Nếu là chuyện này thì quả thật người Nam man quá dã man, vô văn hóa. Nơi như vậy, có lẽ nên diệt đi để cho thiên triều giáo hóa văn minh mới phải.
" Thế còn thiên tượng thứ hai thì sao?" Tống Đế hỏi Tùng Vân chân nhân
"Thiên tượng thứ hai là hình ảnh ẩn tinh phát sáng có nghĩa là lẽ ra ẩn tinh này không xuất thế nhưng vì lý do bất đắc dĩ nào đó mà bị lộ ra trở thành hiện tinh. Người này lẽ ra không có số làm Vương nhưng lại gặp thời nên chấp chưởng Vương vị. Tính cách người này hiền lành, nhu nhược nên không tẩy trừ quần thần triều trước mà vẫn tiếp tục sử dụng, cũng được sự ủng hộ của nhóm quan cũ nên có thể cùng nhau phát sáng".
Triệu Quang Nghĩa, gật đầu. Như vậy, hắn có thể đã rõ. Có lẽ Đinh Khuông Liễn làm chính biến, sau đó, thu phục những người trung thành với cha hắn tạo thành thế cân bằng cộng trị. Điều này chứng minh một mặt hắn cũng có tài năng nhưng uy không đủ.
Nếu là hắn, hắn sẽ tìm cách diệt trừ hết uy hiếp cản bước như việc hắn đã từng làm với vợ con anh trai hắn, thậm chí diệt trừ hoặc phế đi các quan lại thuộc phe Tống Thái Tổ như Tể tướng Triệu Phổ và em trai Triệu Quang Mỹ. Người này tuy bằng tuổi hắn nhưng còn rất non nớt về chính trị và đấu tranh phe phái. Người như thế tuy cần phòng bị nhưng không quá để tâm.
"Được rồi, việc này trẫm đã biết. Xin mời chân nhân về lại Khâm Thiên Giám tiếp tục theo dõi Thiên tượng. Có việc trọng đại chân nhân có thể trực tiếp đến đây để báo cáo cho Trẫm"
Tùng Vân chân nhân biết Tống Đế nói khéo trục khách thì cũng thuận theo mà bái tạ cáo từ. Tống Đế lúc này tiếp tục ngồi xuống uống trà suy ngẫm.
Một lúc sau, hai đại thần Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù đến bái kiến, hắn mới bừng tỉnh gọi vào. Hai người này, bốn năm trước được Tống Thái Tổ sai đi sứ bên Giao Châu, chắc chắn sẽ có nhiều thông tin tình báo về vùng đất trên. Hỏi họ là chính xác nhất.
"Hạ quan khấu kiến bệ hạ. Bệ hạ Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế ạ!" Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù cùng quỳ xuống khấu đầu.
"Đứng lên đi." Triệu Quang Nghĩa cho phép.
"Vâng. Tạ ơn hoàng thượng. Không biết Hoàng Thượng gọi hai thần đến đây có việc gì ạ?"
"Trẫm triệu các ngươi đến đây là có việc để hỏi. Bốn năm trước các ngươi từng được cử đi sứ tới đất Giao Châu. Hãy nói cho trẫm biết, tất cả những gì các ngươi nhìn thấy, nghe thấy khi qua nơi đó". Triệu Quang Nghĩa uy nghiêm hỏi
Cao Bảo Tự và Vương Ngạn Phù nhìn nhau hội ý rồi Vương Ngạn Phù bước lên trước một bước tâu trình :
"Muôn tâu bệ hạ, Giao Châu là vùng đất xa xôi phía Nam. Nơi này là nơi sinh sống của các bộ tộc thiểu số người Việt, nếu truy nguồn gốc thì có thể kéo dài từ thời đời Thần Nông. Người nơi đây theo chế độ mẫu hệ nên có tín ngưỡng Thờ Mẫu. Sau này, họ bị ảnh hưởng bởi văn hóa của chúng ta mà chuyển dần sang chế độ phụ hệ nhưng cũng không hoàn toàn là Phụ hệ. Đàn ông nắm quyền nhưng đàn bà vẫn có địa vị rất cao trong tộc quần.
Cách đây, hơn 1100 năm trước, nhà Hán đã chinh phục nơi này và sát nhập vào lãnh thổ nước ta. Dân chúng ở đây không quen giáo hóa của Thiên triều nên thường xuyên nổi dậy làm giặc cướp phá hoại nhưng đều thất bại.
Cách đây, mấy chục năm, nhân lúc bên ta loạn lạc, quần hùng nổi lên, các thủ lĩnh bộ tộc ở đây cũng thuận thế mà đứng lên tự lập xưng Vương. Nhưng phải tới cách đây 12 năm, mới chính thức khai triều lập quốc một cách quy củ, đàng hoàng. Tuy còn sơ sài nhưng cũng coi như học theo thiên triều một hai phần.
Bốn năm trước bọn thần vâng mệnh Thái Tổ đi sứ phong Vương cho người thủ lĩnh họ Đinh nơi ấy gọi là Hoa Lư. Kinh Thành của họ không có tường thành, chỉ dựa vào thiên nhiên có sẵn là bốn con sông làm hào chắn. Họ gọi nó là Tràng An tức học theo tên của kinh đô Tràng An thời nhà Đường.
---------