Chương 123: Tống Đế Triệu Quang Nghĩa

Cùng thời điểm Đinh Liễn đang chơi đùa thảo luận với gia đình Hoàng Tộc tại Ngự thiện phòng thì tại Biên Kinh nơi Đại Tống xa xôi. Trong cung Thái Cực, trời đã khuya nhưng thư phòng của Tống Đế vẫn sáng trưng ánh nến. Một người đàn ông trạc tuổi trung niên đang ngồi phê duyệt tấu chương, đứng bên cạnh là mợt thái giám chừng 50 - 60 tuổi hầu hạ. Thỉnh thoảng, người này lại mang ly trà qua nhắc nhở để người đang ngồi làm việc tạm nghỉ ngơi uống nước giải khát.

Người đàn ông trung niên đó chính là Tống Hoàng Đế hay còn có tên hiệu là Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa, em trai Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận.

Tống Thái Tông tên thật là Triệu Khuông Nghĩa, sau có tên Triệu Quang Nghĩa là để tránh phạm tên húy của Hoàng Đế anh, có tên tự là Đình Nghi, chào đời vào ngày 20 tháng 11 năm 939, cùng năm sinh với Đinh Liễn - Đại Cồ Việt.

Phụ thân của ông ta là Triệu Hoằng Ân, viên quan cấp cao trong triều đình Hậu Chu. Khuông Nghĩa là con trai thứ ba trong gia đình, trên ông còn có đại huynh Quang Tế chết sớm, nhị huynh là Khuông Dận, tức Tống Thái Tổ, dưới là lão tứ Đình Mĩ.

Trước kia, khi thái hậu Đỗ thị mang thai Khuông Nghĩa, từng nằm mộng thấy có vị thần nhân đưa mặt trời cho mình, sau đó thì sinh ra hắn (*). Từ nhỏ Khuông Nghĩa đã hơn người, bọn trẻ con gần đó chơi với ông đều phải phục tùng.

Khi trưởng thành, từ dáng người, khuôn mặt đều hiện ra tướng thiên tử. Trái với Khuông Dận thích nghiệp võ, Khuông Nghĩa lại thích đọc sách. Lúc Triệu Hoằng Ân lĩnh binh ở Hoài Nam, phá các châu huyện, của cải cướp được rất nhiều, song Khuông Nghĩa chỉ cầu lấy những quyển sách quý.

Năm 951, Quách Uy lập ra triều Hậu Chu. Dưới thời Chu, Triệu Khuông Dận được trọng dụng, làm đến chức Tiết độ sứ, chỉ huy lực lượng kị binh triều đình; bản thân Khuông Nghĩa cũng được ban chức Cung phụng quan đô tri. Năm 959, Hậu Chu Thế Tông qua đời khi đang trong chiến dịch đánh Liêu, con là Sài Tông Huấn kế vị còn nhỏ tuổi.

Năm 960, nước Liêu và Bắc Hán hợp quân công Tống, đánh vào hai châu Trấn, Định. Triều đình Hậu Chu cử Triệu Khuông Dận mang quân đánh dẹp. Khuông Dận dẫn quân đi được 40 dặm, đến Trần Kiều thì có người nhìn thấy 2 mặt trời đánh nhau (**).

Mọi người cho rằng đây là việc chuyển giao Thiên mệnh, khí số Hậu Chu đã hết, Thiên mệnh ứng trên người Triệu Khuông Dận. Quân sĩ thấy thế ai cũng reo lên, các tướng lĩnh thì xin Triệu Khuông Dẫn nắm lấy hết binh quyền mà tự lập. Khuông Nghĩa cùng mưu sĩ Triệu Phổ đạo diễn lấy hoàng bào khoác lên mình Nhị ca, sử gọi là hoàng bào gia thân.

Triệu Khuông Dận lập tức dẫn quân về kinh đô Biện Lương và kéo thẳng vào thành, triều thần Hậu Chu trước tình thế đó, buộc phải công nhận Triệu Khuông Dẫn là hoàng đế. Hậu Chu diệt vong, Bắc Tống được thành lập. Triệu Khuông Nghĩa được phong làm Điện tiền đô ngu hậu, phòng ngự sứ Mục châu.

Năm 961, mẹ Thái Tổ (và Quang Nghĩa) là Đỗ thái hậu bị bệnh sắp mất, có trăn trối lại rằng Hậu Chu mất nước là do ấu chúa lên ngôi, lòng người không phục; nay con Thái Tổ còn nhỏ tuổi, nên phải truyền ngôi cho Quang Nghĩa, Quang Nghĩa lại truyền ngôi cho em là Quang Mĩ rồi mới tới con Thái Tổ, để tránh giẫm lên vết xe đổ lúc trước; Thái Tổ bằng lòng, đem tờ giao ước để trong cái hộp vàng, đó gọi là kim quỹ chi minh.

Thái Tổ thân chinh Trạch Lộ, Quang Nghĩa được lệnh ở lại kinh thành và nhận chức tiết độ sứ Thái Ninh. Năm 961, Thái Tổ dẫn quân đánh dẹp tướng nổi dậy Lý Trọng Tiến, Quang Nghĩa được phong Đại Nội đô bộ thự, Bình chương sự, Khai phong doãn; sau gia kiêm Trung thư lệnh.

Năm 962, Triệu Khuông Dận bình định Kinh Nam, Hồ Nam. Năm 964, đánh Hậu Thục, bắt được Thục đế Mạnh Sưởng. Quang Nghĩa vốn là cao thủ về độc dược. Bấy giờ Mạnh Sưởng có người vợ rất xinh đẹp là Hoa Nhị, rất được sủng ái, bản thân Quang Nghĩa thèm thuồng đã lâu liền nghĩ cách mời Mạnh Sưởng đến chỗ mình dự tiệc, rồi đánh thuốc độc giết đi (965). Tuy nhiên, Hoa Nhị lại được nạp vào hậu cung của Thái Tổ, mâu thuẫn thù hằn giữa hai anh em cũng bắt đầu nảy sinh.

Triệu Quang Nghĩa nghĩ rằng chính mình đã có công sắp xếp và đạo diễn cho ông anh lên ngôi Hoàng Đế được cả thiên hạ. Nay chỉ vì một người đàn bà cũng không nhường hắn, thật là quá quắt. Thế là một âm mưu trả thù Hoa Nhị và Tống Thái Tổ bắt đầu được thiết kế. Hắn muốn vấn đỉnh thiên hạ, muốn làm chủ sở hữu tất cả các báu vật thế gian, sở hữu tất cả những người đàn bà đẹp nhất.

Quang Nghĩa ngầm ngầm xây dựng và củng cố thế lực cho mình, tập hợp bọn văn nhân gồm 66 người như Tống Kỳ, Thạch Hy Tải, Đậu Xứng. Năm 976 tức 10 năm sau nhân buổi đi săn, hắn đã giả uống say mà bắn chết Hoa Nhị. Tống Thái Tổ rất tức giận và đau lòng nhưng vì tình huynh đệ nên đành phải bỏ qua.

Năm 971, Tống diệt Nam Hán, năm 976 diệt Nam Đường. Năm 973, Thái Tổ chinh phạt Thái Nguyên, cử Quang Nghĩa làm lưu thủ Đông Kinh, phong Tấn vương, địa vị trên tể tướng. Bấy giờ tể tướng Triệu Phổ một mình nắm quyền, đoán rất rõ âm mưu của Quang Nghĩa, nên tìm cách ngăn cản và công kích. Hai người vì thế mà âm thầm tranh đấu với nhau hơn 10 năm, đến đây Triệu Phổ bị bãi tướng, quyền lực của Quang Nghĩa tăng lên đáng kể.

Đời Hậu Chu, Thế Tông Sài Vinh cũng từng làm Tấn vương Khai Phong doãn, vì thế mọi người trong ngoài đều nghĩ rằng Quang Nghĩa sẽ là người kế vị. Thái Tổ trước kia từng lập lời thề trước mặt thái hậu, nhưng nay các hoàng tử đều đã trưởng thành, hoàn toàn có thể đăng cơ, điều này khiến Quang Nghĩa rất bất an. Vì thế, hắn đã quyết tâm lập mưu giết anh soán quyền.

Từ mùa đông năm 976, tức ngày 13 tháng 11 năm 976, Thái Tổ triệu Quang Nghĩa vào cung uống rượu, đến tối thì Quang Nghĩa ra về. Sáng ngày hôm sau, tức 14 tháng 11, Thái Tổ qua đời. Hoàng hậu Tống thị vội sai nội giám Vương Kế Ân triệu hoàng tử Đức Phương vào cung để bàn việc đăng cơ cho con. Thế nhưng, không ngờ rằng Kế Ân lại là người của Triệu Quang Nghĩa. Vì thế hắn tuy nhận lệnh nhưng lại đến phủ Khai Phong Triệu Tấn vương báo cáo.

Triệu Quang Nghĩa tập hợp lực lượng xông vào cung cấm. Hoàng hậu Tống thị biết đại thế đã mất nên đã cầu xin Quang Nghĩa tha mạng. Triệu Quang Nghĩa đồng ý với điều kiện hoàng hậu Tống thị phải trở thành hoàng hậu của hắn. Cuối cùng, Tống thị cũng đã trở thành Hoàng Hậu Nhị Đế của Tống Triều.

Ngày 15 tháng 11 năm 976, Tấn vương lên ngôi hoàng đế, là Tống Thái Tông, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thái Bình Hưng Quốc (*). Phong cho Tống hậu làm Khai Bảo hoàng hậu, dời sang Tây cung. Tứ đệ Quang Mĩ vì kị húy nên phải đổi tên thành Đình Mĩ, phong Khai Phong doãn kiêm Trung thư lệnh, tước Tề vương;

Hoàng tử của Thái Tổ Đức Chiêu làm Vũ Công quận vương; Đức Phương là Tiết độ sứ Sơn Nam Tây Đạo, Bình chương sự. Tể tướng Tiết Cư Chính, Thẩm Luân gia phong Tả, Hữu bộc xạ; Lư Đa Tốn làm Trung thư thị lang Bình chương sự, Tào Bân làm Đồng bình chương sự, Sở Chiêu Phụ làm Xu mật phó sứ.

Thái Tông truy phong hoàng hậu có những người vợ đã mất: Doãn thị làm Thục Đức hoàng hậu, Phù thị làm Ý Đức hoàng hậu. Trong cung, Thái Tông sủng ái phu nhân Lý thị, có ý lập làm hoàng hậu. Song vào năm 977, Lý thị qua đời, Thái Tông đặt thụy là Nguyên Đức hoàng hậu. Bấy giờ Thái Tổ về cơ bản đã thống nhất Trung Quốc, chỉ còn Ngô Việt, Bắc Hán và Thanh Nguyên là chưa dẹp được. Triệu Quang Nghĩa tiếp tục thực hiện trong hai năm 978, 979.

Nói đến hai anh em Tống Đế Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa, Đinh Liễn cũng có những duyên nợ ân oán. Năm 972, Đinh Liễn phụng mệnh cha đi sứ nhà Tống. Trước đây Đinh Liễn hắn có tên đầy đủ là Đinh Khuông Liễn, nhưng vì Triệu Khuông Dận cũng có chữ lót là Khuông nên hắn phải bỏ đi trở thành Đinh Liễn như bây giờ.

Đây là sự tình bắt buộc vì đất nước còn quá bé nhỏ, yếu ớt nên phải ủy khuất cầu toàn nhưng trong lòng Đinh Liễn quả thật không vui vẻ chút nào, thậm chí còn hận thù Tống Đế. Tất nhiên, đây là đối với Đinh Liễn trước kia, còn với Đinh Liễn bây giờ thì hắn không quá coi trọng. Nếu có cơ hội thì hắn bắt Tống Đế dù có chết nhưng vẫn phải đổi tên khác và lấy lại tên đầy đủ. Nếu không có cơ hội thì coi như thôi. Dù sao, đây cũng là sự đã rồi. Bỏ qua đi mà sống. (**)

--------

P/s:

(*). Khi sinh ra có báo mộng hoặc thiên địa dị tượng là đặc sản của các triều đại Phong Kiến của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc. Thật giả khó mà đoán định nhưng với quan điểm của tác trong cuốn sách này thì hoàn toàn được coi là thật nhé.

(**) Hiện tượng có hai hay nhiều mặt trời cùng xuất hiện một lúc được gọi là hiện tượng thiên văn Mặt trời giả.

Khi đồng thời xuất hiện 2 hoặc 3 mặt trời thì chỉ có 1 mặt trời thật còn lại là hư ảo được gọi là mặt trời giả. Trong đó mặt trời thật sáng hơn các mặt trời giả. Mặt trời ảo này thường xuất hiện trong lớp mây cuộn tròn. Loại mây cuộn này cách mặt đất khoảng 6000 mét, nhiệt độ rất thấp.

Mặt trời giả thường xuất hiện theo cặp nhưng đôi khi, chỉ có một mặt trời giả xuất hiện ở một trong hai phía của mặt trời thật. Chúng thường không có dạng tròn như mặt trời, mà được kéo dài ra theo hình một giọt nước mắt với đỉnh nhọn hướng ra xa mặt trời.

Thông thường, ta thấy mặt trời giả vào khoảng sau giữa trưa hay sáng sớm, vào cuối thu, suốt mùa đông và đầu xuân. Ở Alska, những hiện tượng này thường được thấy vào lúc bình minh hay hồng hơn trong điều kiện trời nhiều sương.

(*). Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc của Đại Tống trùng với niên hiệu Thái Bình của Đại Cồ Việt do Đinh Tiên Hoàng đặt, sau này nước ta bắt buộc phải thay đổi niên hiệu để tránh kỵ húy và tìm cớ gây sự của Đại Tống

(**) Chi tiết Đinh Khuông Liễn đổi tên thành Đinh Liễn như thế nào thì không có nguồn sử liệu nào ghi chép, tác hoàn toàn là hư cấu do nhận thấy chi tiết Đinh Liễn từng qua Đại Tống chầu Thiên triều và tục kỵ tên húy của các bậc Hoàng Đế. Lúc này, trên danh nghĩa, Đại Cồ Việt vẫn là vùng đất của Thiên Triều nên vẫn tiếp nhận Tống Đế phong Vương và quan chức.