Chương 109: An Táng Kỳ Lân Sơn

Kỳ Lân Sơn là một ngọn núi có hình dáng như một con Kỳ Lân đang ngẩng đầu. Đây là một nhánh núi của dãy tổ sơn Trường Sơn. Dãy Trường Sơn chạy từ phía Nam ( An Giang - Việt Nam) nơi được gọi là đất Thánh Thất Sơn chạy dọc lên phía Bắc tới khu vực Thanh Hóa - Ninh Bình.

Nhìn trên bản đồ Việt Nam hiện đại thì đất nước như một con rồng lớn. Dãy Trường Sơn như một cái cột sống lưng, hai bên chạy tua tủa như xương sườn. Bảy ngọn núi Thất Sơn còn được gọi là bảy nhánh đuôi rồng.

Đầu Rồng thực tế là chạy lên tận Lạng Sơn Quảng Ninh, viên Ngọc chính là Đảo Hải Nam cho nên hình dáng miền Bắc như một cái đầu rồng đang phun ngọc ra biển.

Tuy nhiên, đầu Tổ Long Trường Sơn bị đuôi rồng Tổ Long dãy Himalaya đè bẹp nên dẫn tới tan nát thành nhiều nhánh nhỏ. Đặc biệt là khu vực Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến khu vực này thường sinh ra rất nhiều nhân kiệt, vua Chúa. Gọi khu vực này là địa linh nhân kiệt cũng không quá đáng.

Xung quanh ngọn núi Kỳ Lân là rất nhiều ngọn núi, ngọn đồi nhỏ hơn tạo thành thế Vạn Thú triều Hoàng ( Vạn con thú bái lạy thú hoàng). Phía trước mặt ngọn núi này là ngã ba sông Gián Khẩu nơi giao giới giữa hai con sông Đáy và sông Hoàng Long.

Địa thế ở đây phải nói là tuyệt hảo để đặt mộ Đế Vương. Đinh Liễn đã dùng Con Mắt Khí Vận soi chiếu nơi hội tụ các dòng khí lành cho nên chọn được nơi này để đặt mộ cho Đinh Tiên Hoàng.

An táng cho Đinh Tiên Hoàng nơi đây, Khí Vận triều Đinh ít nhất sẽ giữ được 12 đời Hoàng Đế.

Nói đến các Long mạch nhiều người nhầm tưởng là các thế núi, đất, đá, sông như hình con rồng mới gọi là Long Mạch. Đây là một sai lầm. Có rất nhiều hình tướng Long mạch khác nhau như hình cái ngai vàng, cái chuông, hồ lô, con rắn, giao long, hổ cuộn, thiên mã...nhưng hình rồng là nhiều nhất nên người ta mới dùng nó làm tên đại diện. Và mỗi hình tướng ấy sẽ giúp cho những âm phần và dương tế trong phạm vi ảnh hưởng có đặc điểm giống như tính chất của Long mạch.

Ví dụ: đặt mộ phần ở thế đất hình ngai vàng thì con cháu sau này dễ làm Vua, chúa, đời sau là các vị trí như Tổng thống, chủ tịch nước, Tổng bí thư. Nếu đặt mộ nơi thế đất hình nén vàng thì con cháu sau này sinh ra nhiều tỷ, triệu phú. Nếu đặt mộ nơi thế đất hình bút, nghiên thì con cháu đời sau thường có học hàm, học vị...

Lại nói về con Kỳ Lân. Kỳ Lân là Vua của loài Thú và nằm trong Tứ Linh: Long, Lân, Quy, Phụng. Long là vua loài bò sát. Quy là vua của loài Thủy tộc, Phụng hay Phượng là vua của loài Chim.

Lân là con cái, còn con đực gọi là Kỳ, gọi chung là Kỳ Lân. Kỳ lân là một con vật có đầu nửa Rồng nửa Thú, nó chỉ có một sừng, do nó không húc ai bao giờ nên chiếc sừng này được xem là hiện thân của Từ Tâm

Nhưng phần lớn hình ảnh Lân được khắc họa là có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rất rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò.

Đôi khi nó lại có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đuôi Bò, trán Sói, móng Ngựa, da có đủ 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, đặc biệt dưới bụng có màu vàng đặc trưng…

Cũng có khi con vật này xuất hiện dưới hình dáng có mình của một con Hoẵng, có vảy cá trải dài khắp thân…

Nhưng cho dù con Lân có xuất hiện với hình dạng như thế nào đi nữa thì trong tín ngưỡng dân gian phương Đông, Kỳ Lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành sắp đến, là biểu tượng cho sự nguy nga đường bệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao.

Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, khi di chuyển nó tránh giẫm lên các loại côn trùng và cỏ mềm dưới chân mình.

Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên gọi nó là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ)

Kỳ lân có tánh linh, khi có vua chúa, thánh nhân ra cứu đời thì Kỳ lân sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng.

Ở Trung Quốc, Lân cũng được sử dụng như con vật linh thiêng bảo vệ cho các công trình kiến trúc, dinh thự, lăng mộ…

Nó được dùng để trang trí trên các bức bình phong của chùa, đền, miếu… nhiều lúc nó lại chuyên chở trên lưng các bức cổ đồ hình bát quái… với ý niệm thể hiện sự may mắn luôn song hành cùng chữ nghĩa, đạo lý trong cuộc sống, đó là sự bảo trợ cần thiết mang tính linh thiêng.

Tuy nhiên, con Kỳ Lân khi về Việt Nam lại biến thành một con vật khác thuần Việt đó là con Nghê. Con Nghê không có sừng, mình không lớn,, chân ngắn và thường có móng vuốt, nó không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng nhỏ nhắn này phần nào cũng thể hiện được nét tinh nghịch và vui tươi.

Người Ấn Độ thì lại cho rằng con Kỳ Lân chính là con sư tử mang theo sức mạnh vô biên.

Vào các ngày vui như lễ tết, khai trương...ngoài việc tổ chức múa rồng thì người ta còn tổ chức múa sư tử hay múa Lân với mong muốn mang đến điểm lành ( đại cát) cho gia chủ.

-----

Khi đoàn người tới chân núi Kỳ Lân Sơn, sự chuẩn bị ở đây đã đầy đủ và sẵn sàng. Phía trước dẫn đầu leo núi là các vị cao nhân Phật Đạo. Tiếp tới là Đinh Liễn hai tay bê theo bình tro cốt và gia quyến Hoàng Tộc và chư vị bách quan.

Phía trên ngọn núi đã xây dựng một ngôi đền thờ. Vì thời gian quá ngắn nên vẫn còn sơ sài.

Các vị cao nhân bắt đầu tụng niệm kinh văn làm lễ khai quang và nhập thổ vi an. Sau đó, Đinh Liễn cầm theo bình tro một mình từ từ đi vào phía trong. Rèm cửa bắt đầu được kéo xuống. Hai hàng Thiên Tử quân canh giữ nghiêm mật hai bên.

Bên trong ngôi đền, Đinh Liễn bắt đầu sử dụng siêu năng lực, núi đá liền tách ra một cửa động tạo thành một lối đi. Hắn nhanh chóng bước vào, hàng đá dưới chân chuyển động đưa hắn vào sâu trong lòng núi đá.

Một lúc lâu sau, khoảng cách cửa động phía trên đỉnh và phía dưới nền đất khoảng 100m thì Đinh Liễn dừng lại. Nơi đây có một không gian tròn có bán kính như một gian phòng đá. Đây chính là nơi hội tụ Khí Vận của muôn ngàn nhánh núi sông hay còn gọi là Trái tim Kỳ Lân. Không gian đặc quánh lấp lánh ánh sáng.

Đinh Liễn vung tay, một bệ thờ hình hoa sen bằng Đá Quý Thạch Anh Tím từ phía dưới nền căn phòng mọc lên. Đóa sen có chín, chín tám mươi mốt cánh. Hắn cẩn thận đặt bình tro cốt lên giữa đài sen rồi sau đó hóa pháp cho đá quý bao quanh hoa sen lại như một quả trứng gà. Hắn lại thiết kế 9 cái lỗ ( cửu khiếu) để các dòng khí bên ngoài ra vào quả trứng một cách tuần hoàn.

Sau đó, Đinh Liễn lại vung tay, xung quanh bệ đá hiện lên 108 bệ đá nhỏ hơn có độ cao thấp khác nhau. Có bệ từ dưới đáy nhô lên. Có bệ từ bên hông nhô ra. Có bệ từ phía trên tràn xuống như măng đá. Đầu các bệ đá hắn gắn lên đó những viên đá quý ẩn chứa nhiều năng lượng như Saphia, Kim Cương, Thạch Anh, Đá Đỏ, Đá Huyết Rồng, Phỉ Thúy, Ngọc... Tạo thành một trận pháp gọi là Đế Vương Tụ Khí Trận.

Khi hoàn thành xong phần tâm trận, hắn liền dùng con mắt Khí Vận quét qua các lỗ thông hơi xem các dòng khí chạy vào có bị cản trở gì hay không. Nếu có, hắn sẽ đả thông cho chúng. Giữa các thông đạo hắn làm các màng mỏng lọc khí để chắc chắn các dòng năng lượng sạch sẽ sẽ đi vào bồi bổ quả trứng cửu khiếu. Các cặn bã sẽ bị chặn ở bên ngoài.

Làm xong hết mọi việc hắn lại thiết kế ra hàng trăm cơ quan, bẫy rập, to nhỏ xung quanh. Các loại đá cứng rắn nhất cũng bị hắn triệu hồi che chắn, phòng thủ. Đến khi hắn không còn suy nghĩ ra bất kỳ biện pháp nào thêm thì mới dừng tay lại và theo thông đạo đi lên đỉnh núi.

Hắn đi tới đâu, đá núi khép tới đó cho đến khi bước chân tại nền ngôi đền trên đỉnh núi thì kẻ hở đã dính chặt hoàn toàn.

Tới đây, Đinh Liễn lại thiết kế ra một ngôi mộ đá giả ngay giữa trung tâm ngôi đền, sau đó lại biến hóa ra một cái bình và hóa tro đất trong đó, nhìn y như cái bình thật rồi đặt vào trong mộ giả. Nắp mộ cũng bị hắn hàn lại khép kín nguyên khối. Phía trên làm một cái bệ thờ hình chữ nhật to.

Trên bệ thờ đó, Đinh Liễn lại tạo ra một bức tượng Đinh Tiên Hoàng bằng đá xanh cứng. Trong đầu tượng là một viên đá quý ẩn chứa năng lượng và khắc hình Cửu Sắc Hoa Sen, Thánh Long nhằm thu thập tín ngưỡng của người dân đến thăm viếng.

Lời cầu nguyện của dân chúng chính là các ý niệm phức tạp trong nội tâm. Nó biến thành một lực lượng mới gọi là tín ngưỡng lực. Tín ngưỡng lực sẽ bị hấp thu vào bức tượng và bị viên đá quý lọc đi tạp chất, để lại một phần tinh túy kết nối với bình tro cốt thật phía dưới bụng Kỳ Lân Sơn.

Sau đó chuyển hóa thành năng lượng Khí Vận Quốc Gia xuyên qua không thời gian vào thức hải 4D của Đinh Liễn. Tất cả quá trình phức tạp ấy sẽ giúp cho hậu duệ của hắn mang trong mình thánh linh, thông minh tuyệt đỉnh, tài năng vô song, nhân kiệt lớp lớp. Đây là một sự đảm bảo vững chắc cho dòng máu Hoàng Gia tre già măng mọc, hậu duệ chỉ có càng ngày càng mạnh mẽ hơn tổ tiên.

Đinh Liễn xây dựng mộ giả, mộ thật cũng là tránh cho kẻ xấu đến đây phá hoại nhằm vào Hoàng Gia. Đây cũng là cách các vị Đế Vương thường làm để bảo tồn âm đức.

Bệ thờ được Đinh Liễn thiết kế hoàn toàn bằng đá cứng. Từ bát hương, lọ hoa, hai con hạc trắng, các bức phù điêu rồng phượng cho đến các bức hoành phi... Để thêm phần chắc chắn hắn còn dùng cả khí vận phản phệ để cho bất cứ kẻ nào mạo phạm hay phá hoại đều bị nguyền rủa tuyệt tử, tuyệt tôn, hộc máu mà chết. Ngược lại, những người mang thiện ý giữ gìn,trông nom , nhang khói sẽ được năng lượng Khí Vận ban cho phúc khí, giàu có, thành đạt, con cháu đầy đàn.

Ngay cả ngôi đền cũng bị hắn dùng pháp lực đúc lại bằng đá nguyên khối. Từ hoa văn cho đến kết cấu đều được hắn dùng Hệ điều hành chi tiết 3D thiết kế. Đây là một ngôi đền không quá to lớn như các ngôi đền ở Ấn Độ hay Trung Hoa nhưng cũng vào loại khủng bố và linh dị nhất thế giới.

Hoàn thành xong, hắn đi ra ngoài. Mọi người cũng đã quỳ xuống chờ đợi khá lâu. Nhưng không ai dám kêu ca một lời.

Đinh Liễn tiến đến các vị cao nhân:" Phần của Trẫm đã xong, xin mời các vị đại sư đi vào làm lễ Khai Quang. Trẫm kính nhờ!"

Lần lượt hai hàng Phật Đạo cúi đầu đáp lễ rồi đi vào phía trong đền thờ. Mặc dù biết Đinh Liễn dùng pháp lực cải tạo và xây dựng nhưng khi tận mắt chứng kiến, các vị đại sư đều kinh ngạc không nói lên lời. Ngôi đền bằng đá nguyên khối vừa mang vận vị Á Đông, vừa toát lên vẻ Man Hoang, khí khái, lại tinh tế văn minh. Nghĩ đến sắp tới Đinh Liễn sẽ thiết kế và xây dựng Đạo tràng cho Giáo Hội mình, các vị đại sư mừng rỡ không thôi.

Hoàn thành khai quang, các vị đại sư lui ra. Lúc này Đinh Liễn dẫn theo con cháu Hoàng Gia và chư vị bách quan đi vào thắp nén nhang thơm rồi đi ra cửa Trắc ( cửa hông). Nghi lễ đến đây coi như kết thúc.

Đinh Liễn cũng tranh thủ cải tạo hoàn cảnh bên ngoài. Nào ra sân đền, nền đá, nào là giếng nước, phòng bếp, phòng ngủ, phòng làm việc, phòng vệ sinh...tất cả tạo thành một quần thể kiến trúc vô cùng đặc sắc và vững trãi. Đây cũng là nơi hắn và hoàng tộc dùng để sinh hoạt khi trở về thăm viếng.

Nơi đây cũng sẽ trở thành một địa điểm du lịch, văn hóa, tâm linh cho cư dân nơi đây và du khách thập phương. Người ta đến đây chắc chắn sẽ dùng dịch vụ, như vậy sẽ gia tăng thu nhập cho Hoàng Gia và tạo công ăn việc làm cho nhiều người. Ngoài ra, đến đây thì kiểu gì cũng thắp nhang, vái lạy, năng lượng tín ngưỡng sẽ phát sinh và trở về bồi dưỡng cho con cháu. Một công đôi ba việc.