Tống Dương cũng tự đoán được, hai loại tình hình này, loại thứ nhất gần như không có khả năng, kết quả của loại thứ hai tính khả năng thành công rất lớn.
Tống Dương nói rất chi tiết.
Sự phân tích này của hắn đều như giội nước lã vào Vô Ngư, không ngờ Vô Ngư lại cười, gật đầu:
- Người trẻ tuổi có thể có nhận thức như vậy, coi như là không tồi, chả trách tuổi trẻ đã được Phong Long ban thưởng, phong làm Thường Xuân Hầu.
Nói xong, bà lại tiếp tục vấn đề lúc trước:
- Vậy ngươi lại giúp ta nghĩ xem, ta muốn xây dựng Diệu Hương Cát Tường, nên hành sự thế nào?
Tống Dương nhụt chí, những lời vừa xong đều nói vô ích rồi. Tuy hắn và Vô Ngư tiếp xúc với nhau không lâu, nhưng nhìn thế nào cũng không cảm thấy vị sư thái này có bộ dạng thiếu mất con ngươi, nhưng bà trong chuyện này vẫn cố tình cãi lại.
Vô Ngư là trưởng bối, là bạn, là chiến hữu cũng là người tínngưỡng của Thi Tiêu Hiểu, Tống Dương không dễ đi tường thuật qua loa lại cho bà, vẫn là chân thật nói:
- Sư thái nếu muốn được việc, thế nào cũng phải có sự tương trợ của triều đình; nhưng chỉ có sự ủng hộ của triều đình không thôi thì mãi mãi không đủ, mấy trăm năm qua, từ triều trước tới bây giờ qua nhiều thế hệ quân vương Nam Lý đều không can thiệp tới những việc của phật gia, bây giờ muốn ngẩng đầu chỉ e sẽ tạo thành kết quả ngược lại, ít nhất, sư thái có được cục diện trước mắt của chính mình, triều đình mới bỏ ra một phần công sức. Cục diện này, không phải chỉ uy vọng hiện nay của ngài, ý của ta là thật sự ủng hộ, hết hy vọng thần phục…
Ý của Tống Dương đã rõ, Vô Ngư có thanh danh tốt, hiện tay nhân khí cao, hòa thượng Nam Lý dựa vào sự nhiệt tình giúp bà làm việc không khó, nhưng phải có nhiều phương trượng của các chùa danh tiếng, Đại Đức cao tăng đứng ra, tuyên bố ủng hộ Vô Ngư làm “ thánh pháp sư”, phụng pháp chỉ của bà lấy làm pháp hiệu, có gì khác đâu người si nói mộng.
Sau khi nói xong, Tống Dương lại nói thêm một câu:
- Lão ngài chớ hiểu lầm, việc ngài nói, ta ước chi có thể làm thành, nhưng ta luôn phải ăn ngay nói thật.
Vô Ngư ra hiệu hiểu ý, lại mỉm cười nói:
- Ngươi có thể biết, thời cổ Nam Lý, cũng từng xuất hiện những nhân vật giống như Yến Đỉnh.. mà còn là một phát ra hai.
Tống Dương chớp mắt, đề tài chuyển qua rất đột ngột, một lúc có nhiều việc không rõ cho nên, Vô Ngư lại tiếp tục nói:
- Phật đồ Nam Lý hiện có hai nhân vật tuyệt đỉnh, pháp hiệu của họ không nhắc tới nữa, tạm thời gọi là a Miêu và a Cẩu đi. Phật học tinh thông, tâm trí thông thiên, thủ đoạn sắc bén.. A Miêu, A Cẩu đều là rất xuất sắc, mấy trăm năm đều không có kỳ tài nào như vậy, ba trăm năm trước một lượt sinh ra hai, hai người đều là chí lớn vô cùng, đều muốn thống nhất phật gia Nam Lý.
- A Miêu được tín đồ lấy tên thánh Tăng , a Cẩu lại được cho rằng là La Hán chuyển thế, thế lực của hai người đó sau này càng ngày càng lớn, lúc đầu đấu đá nhau, từ ám đấu đến minh đấu, hai người tài trí tương đương, thủ đoạn như nhau, ai cũng không làm gì nổi ai, hôm nay ta thắng, ngày mai ngươi thắng, trận đấu kéo dài mấy chục năm, lúc đó còn chưa có Nam Lý quốc, toàn bộ phật môn trong ngoài đều gần như bị liên lụy, vốn Niết Bàn ngoại thế yên tĩnh an bình bị hai người đó làm cho chướng khí mù mịt, cùng với hắc đạo, giang hồ cũng không thấy sự khác biệt gì. Đương nhiên, đây là cách nói của ta, lúc đó, tín đồ lúc đó không nghĩ thế nào, cho nên những người tham dự đều cảm thấy mình đang hộ pháp, dân thân trong xá quên mình.
- A Miêu và A Cẩu tuy hậu thế cộng sinh, nhưng số tuổi dù sao vẫn không giống nhau, a Miêu lớn hơn A Cẩu hai mươi tuổi, hai người đấu đến trời u đất ám, nhưng chung quy vẫn không đấu nổi trời, A Miêu chưa thua nhưng già không sống nổi. Chín mươi tuổi rồi, Tuổi thọ đã đến, nghĩ muốn không thua cũng không thể được rồi, trước khi chết một mình ông ta tới đại bản doanh của A Cẩu, Bồ Đề thiền viện. Trước khi chết A Miêu muốn gặp lại A Cẩu.
- A Cẩu đã nắm chắc phần thắng, nhưng ông ta hiểu A Miêu thua trời, chứ không phải thua dưới tay ông ta. Trong lòng A Cẩu không thấy thoải mái, nhưng đối với A Miêu, ông ta cũng rất khâm phục, mà trời đất đối đầu, suốt đời đối địch, trước khi chết lại chạy tới tìm ông ta, làm sao không phải là một sự tôn trọng. A Cẩu không để ý lời khuyên can của môn đồ, tự mình ra đón, đưa A Miêu vào thiền viện.
A Miêu tính mệnh không còn nhiều, không có tâm trạng tranh đấu, trong ba ngày sau đó, a Miêu a Cẩu nói chuyện kinh đạo, bàn tới phật lý, lại không hề có tranh chấp, chỉ là mỗi người đều phát biểu ý kiến của mình, phải biết rằng hai người họ đều là đại đức đương thời, đều có kiến thức, trò chuyện với nhau vui vẻ vô cùng, các tăng lữ ở Bồ Đề thiền viện lúc đó có thể thấy hai lão hòa thượng nói chuyện với nhau cao hứng vô cùng, vui vẻ cười to, khoa chân múa tay vui sướng.
Đợi tới rạng sớm ngày thứ tư, tinh thần a Miêu bắt đầu uể oải, thực sự không thể sống tiếp được nữa rồi, A Cẩu ở bên cạnh ông ta, ảm đạm thở dài:
- Nếu có thể, ta nguyện cho ngươi mười năm tuổi thọ của ta, sau đó ta ngươi lại tranh đấu mười năm nữa, sau đó cùng dắt tay nhau sóng vai đi tới cực lạc.
A Miêu khinh thường:
- Ngươi có thể khẳng định, ngươi sẽ thọ hơn ta nhiều vậy sao, thọ được chín mươi tuổi sao?
A Cẩu sửng sốt, rồi cười lớn: A Miêu nói tiếp:
- Ta ngươi đã đấu nhau mấy chục năm rồi, ngươi thấy đủ rồi.
A Cẩu lại ngẩn người:
- Đấu thì đấu rồi, cái gì gọi là “đấu nhiều”?
- Ngươi không bằng ta.
A Miêu giọng nói suy yếu :
- Không phải nói tài học tâm trí, mà là...sư môn.
A Miêu xuất thân danh môn Cổ tháp, A Cẩu lại là lớn lên ở Dã Miếu, luận tới xuất thân, hai người cách nhau khá xa. Nhưng A Miêu nói như vậy, A Cẩu lại cười và lắc đầu:
- Ngươi có sự dạy bảo của sư phụ, có tiền bối giải thích mà luyện tập, còn ta, toàn bộ đều tự dựa vào bản thân mày mò tìm hiểu, đến cuối cùng ta ngươi thực lực ngang nhau, tính ra, vẫn là ta thông minh hơn ngươi một chút.
A Miêu mệt mỏi thật sự, không hề cãi lại câu nào, chỉ cố hết sức cười nói:
- Ta có lễ vật tặng cho ngươi, một lát nữa mới có thể mang tới… Tranh đấu với ngươi nửa đời, thật là sảng khoái,. Ta không hối hận… Trước tiên không nói nữa, đi ra đi ra, để ta ngủ.
Rất nhanh sau A Miêu chìm vào giấc ngủ nặng nề, rồi không hề tỉnh lại.
A Cẩu lấy lễ sư huynh đồng môn đợi, triệu tập đệ tử hành lễ, đệ tử A Miêu muốn tham gia một mực dàn xếp, đợi mười ngày sau khi A Miêu chết, lễ vật ông ta để lại cho A Cẩu rút cuộc cũng được gửi tới thiền viện, là một phần khế đất.
A Cẩu hồ nghi khó hiểu, tìm đến chỗ khế đất, càng khiến ông ta bất ngờ hơn, đó là một hồ nước dưới chân danh núi phật gia của Nam Lý, diện tích không lớn, gộp lại cũng không quá ba mẫu, ông ta đi xung quanh hồ nước một lúc, bề mặt không nhìn ra cái gì, liền thoát y vào nước, lặn xuống xem.
Ông ta vừa xuống nước, liền kinh ngạc phát hiện, nước trong hồ lạnh thấu xương.
Hang động đá vôi trong nước, nơi sâu của động có một tòa băng hàn, trong phật tông của Nam Lý cực kỳ nổi danh. Không cần hỏi, hồ nước này có liên quan tới cái lạnh của nước. A Cẩu biết A Miêu để lại cho ông ta khế đất này là có thâm ý, trong nước lạnh cắn răng chịu đựng, may mà bản thân ông ta cũng là một cao thủ tông sư, đây mới có thể miễn cưỡng kiên trì, nếu là người thường sẽ bị đông cứng liền.
Hồ nước rất nhỏ, A Cẩu vừa xuống nước không lâu thì phát hiện có điều lạ thường, bùn trong hồ nước, không ngờ thành một cái hang, tiến vào hang vài bước thì thấy, một cái xích sắt cố định ở đáy.
Khi nhìn thấy tiểu tháp đó, A Cẩu chỉ cảm thấy trong đầu có tiếng gì đó, gần như lập tức hiểu ra “sư môn bất đồng” mà A Miêu lúc trước nói với mình, đấu mấy chục năm, ý của câu nói đó.
Nam Lý chịu phật hương tiêm nhiễm, Thiền tông hưng thịnh ngàn năm, trước sau không biết bao nhiêu thánh tăng phật sống, danh nhân vô số, nhưng phải nói người nổi tiếng nhất kia, không phải A Miêu A Cẩu, càng không phải Vô Ngư sư thái, mà là một vị cao tăng Bình Đà thời cổ đại.
Giảng kinh dẫn tới kim long hiện thân, trong thuyết pháp thiên hiện tường quang, tu hành trải qua bạch liên bất bại..Những truyền thuyết có liên quan tới Bình Đà nhiều vô kể, đến khi ông ta viên tịch nghe nói chân thân ông ta hiện thế, ngồi trên ngai vàng hoa sen, cho đến khi người trong thiên hạ biết ông ta là đệ tử thân truyền của Phật Tổ, ngồi xuống tôn sùng là Ngạch Lý đại đức chuyển thế.
Nghe đến đó Tống Dương lại muốn cười, mà Vô Ngư sư thái rõ ràng đã mỉm cười:
- Quả thật là có chút ly kỳ, nhưng vẫn không phải là ly kỳ nhất.
Sau khi Bình Đà viên tịnh, đệ tử của ông ta xem lời trăn trối, hóa ra kiếp trước của tông sư đã biết chân thân của mình, tất cả luân hồi của kiếp trước kiếp này đều bị ông ta tham phá, thậm chí ngay cả sau khi chết, sẽ để lại một miếng Xá Lợi cốt cũng đều tính tới rồi.
Pháp chỉ nói rõ, lệnh cho đệ tử đem Xa Lợi cốt vào phong ấn, chìm vào hang đá ngầm dưới hồ, có một ngày tôn giả Ngạch Lý còn có thể luân hồi trở về thế gian, lúc đó sẽ thu hồi lại Xá Lợi của chính mình.
Đệ tử vâng theo pháp chỉ của sư tôn, mời vô số các cao tăng của Nam Lý tới, bố trị đặt Xá Lợi vào trong tiểu tháp, rồi lại để tiểu tháp chìm vào trong hồ nước.
Điều quan trọng nhất là, truyền thuyết này chi tiết đầy đủ, có liên quan tới Thanh Sắc tháp, miêu tả lại Xá Lợi chi tiết vô cùng, căn bản không phải là đồ giả, có người muốn tạo ra một cái giả, cũng không thể vàng thau lẫn lộn, lừa trời dối đất…
Lúc đó A Cẩu vừa nhìn thấy Thanh Sắc tháp liền giật mình kinh ngạc, lấy ra thanh tháp từ trong hang, sau khi trở lại mặt đất sẽ mở ra, quả nhiên, trong đó có một đầu Xá Lợi, trơn bóng mượt mà, rực rỡ như minh châu.
Bất luận là tháp hay là Xá Lợi châu, đều là độc nhất vô nhị trong truyền thuyết.
Nghe tới đây Tống Dương hiểu ra, A Cẩu ba trăm năm trước cũng bừng tỉnh.
Bình Đà có lẽ thật sự là một vị cao tăng, nhưng miệng đó của ông ta phun ra hoa sen, chuyện tôn giả chuyển thế, hoàn toàn đều là được người ta thêu dệt ra. Quan trọng không phải là con người Bình Đà, mà là trong truyền thuyết: ai có thể lấy ra được Xá lợi tháp Thanh Không, người đó chính là Tôn giả chuyển thế Ngạch Lý.
Về truyền thuyết Bình Đà, đó là sư môn của A Miêu.
Có lẽ là các cao tăng tiền bối sớm đã đoán trước được, phật môn Nam Lý trong đời sau sẽ có phân tranh; có lẽ là lo lắng, trong phật môn sau nay sẽ xuất hiện yêu nghiệt, các tín đồ đi theo tà ma. Cho nên tiền bối sư môn của A Miêu, tạo ra truyền thuyết này, tạo ra một âm mưu, để nhiều thế hệ tương truyền nhau, thật sự có một ngày Phật môn đại loạn, đệ tử phật gia chỉ cần đến hồ lấy ra Xá Lợi tháp Thanh Không, để mơi các cao tăng làm chứng, giâu bảo bối vào hố sau, đợi hắn trở lên, sẽ là tôn giả chuyển thế.
Tôn giả trở về nhân gian, Phật đồ Nam Lý quy tâm, mặc kệ lúc đó có phân tranh gì đều có thể được ông ta giải quyết dễ dàng, đương nhiên sóng yên biển lặng.
Vì việc này, tiền bối sư môn của A Miêu đã tốn nhiều tâm sức căn bản không thể tính toán. Bào chế ra một truyền thuyết không khó, nhưng để biến truyền thuyết mờ ảo này thanh một “ấn tượng” thâm căn cố đế trong lòng các Phật đồ Nam Lý thì không phải là chuyện dễ dàng, phải mất một thời gian dài để đi truyền giảng, hết thế hệ này tới thế hệ khác không ngừng đi truyền bá mới có thể thành công, dưỡng Xá Lợi tháp ở dưới mạch thủ kính, cũng giống như một lương khổ dụng tâm, Xá Lợi trong truyền thuyết ẩn chứa hàn đầm, trải qua bao nhiêu năm đầu, từ Thanh Tháp tới Xá Lợi đều vào trong nước, lắng đọng hàn ý, tương lai sẽ không bị nghi ngờ.
Nhìn Thanh Kkhong Xá Lợi tháp trong tay, A Cẩu đột nhiên cười, không vì vui vẻ đắc ý, mà là tự giễu mình. Khi đấu với A Miêu, ông ta từng nhiều lần suy nghĩ, muốn lợi dụng truyền thuyết này, tìm ra hoặc tạo ra một bảo bối để lôi kéo tín đồ, nhưng đều vì độ khó rất lớn không thể không từ bỏ, ông ta cũng thật không ngờ, Xá Lợi tháp vẫn luôn trong tay A Miêu.
Trái lại lại nghĩ, A Miêu nếu đồng ý dùng Thanh Không Xá Lợi tháp, A Cẩu sớm đã thất bại thảm hại, nào còn có mấy chục năm tranh đấu nữa… Nguyên nhân ông ta chưa từng dùng tới bảo bối đã rất rõ ràng, có thể là A Miêu cảm thấy cục diện trước mắt không đáng để phải lãng phí bảo vật; có thể là vì bản thân là phụ lòng sư môn, khiến trong lòng ông thấy hổ thẹn; cũng có thể A Miêu khong cầu thắng mà đánh, cảm giác kỳ phùng địch thủ khiens ông ta không thể bỏ, vừa không muốn dựa vào ngoại lực, cũng không muốn chấm dứt ván cờ.
A Cẩu tự mình nghĩ càng nghiêng theo suy nghĩ cuối cùng. Trong mấy chục năm, ông ta lúc nào cũng mong thắng, vì đối phó với kình địch mà phải vắt hết óc suy tính, cho đến khi A Miêu chết rồi, ông ta đắc thắng, nhưng không vui vẻ chút nào, đương nhiên cũng không quá buồn, không vui không buồn, chỉ là cảm giác trời đất bông rộng lớn, mà bản thân lại quá nhỏ bé.. Vắng vẻ, không có chỗ dựa, không nói đến cô đơn, lại hơi chút cô độc.
Ván cờ này xong rồi.
A Miêu không dối trá, nhưng thực sự đã nhường a Cẩu.
A Cẩu đặt mình vào hoàn cảnh người khác, nếu ông ta là A Miêu, hẳn cũng sẽ làm như vậy.
Ván cờ không nỡ kết thúc cũng đã kết thúc rồi, không có đối thủ, hùng tâm tráng trí hình như cũng mất đi, trước mắt một thế giới rộng lớn, nhưng A Cẩu lại không hề thấy hứng thú.
Nếu có thể lựa chọn, ông ta muốn trước khi chế A Miêu vẫn thì thào mắng ông ta, ông ta muốn trước khi chết A Miêu không tới Bồ đề thiền viện của ông ta.
Cho nên ông ta đổi lại tên chùa, bồ đề thiền viện gọi là Thiên viện.
A Cẩu đặt Thanh Không Xá Lợi tháp vào chỗ cũ, rồi trở về thiền viện, bỏ lại tất cả mọi việc, lẳng lặng vào phật đường, ba năm sau lão tăng mang theo bộ mặt vui vẻ, không nói với ai câu nào, đứng dậy rời khỏi thiền viện, sau đó không rõ tung tích.
Việc của A Miêu, A Cẩu đã nói xong, Tống Dương hai con ngươi sáng loáng, nhìn chằm chằm vào sư thái:
- Đừng tới thiền viện?
Vô Ngư cười :
- Đúng, Biệt Lai Thiền viện. A Cẩu chính là sư tổ của ta.
Sắc mặt Tống Dương trở lên căng thẳng:
- Thanh Không Xá Lợi tháp đó..
Vô Ngư gật đầu, cười:
- Ta biết nó ở đâu, ta còn biết truyền thuyết liên quan tới tôn giả chuyển thế, tới nay còn đang lan truyền giữa phật đồ Nam Lý, sức nặng rất lớn.. Nếu như thế, ngươi cảm thấy yến đỉnh sẽ tìm tới ta không? Thanh Mộc tại sao không nỡ giết ta? Chỉ dựa vào thanh danh của Vô Ngư, giả mạo lại có thể có nhiều tác dụng sao? Xét tới cùng, vẫn không phải là vì tòa Thanh Không Xá Lợi kia.
Sư thái tạm dừng một lát, lại nói tiếp:
- Còn có Thiền viện địa cung, khí đường xa xa sửa ra, vì địa cung vốn là làm “ tị nạn địa”, A Cẩu lúc đầu sợ A Miêu sẽ giết tới sư môn, liền xây ra địa cung cho chính mình, nhưng cơ quan xuất nhập bị Thanh Mộc cải biến, nên mới có dáng vẻ sau này.
Tống Dương mới không tới địa cung, tiếp tục đề tài trước:
- Ngài biết bảo bối Xá Lợi mất tích, là việc tuyệt mật, Yến Đỉnh sao biết được?
Vô Ngư chậm rãi lắc đầu:
- Ta không biết hắn từ đâu mà biết, nhưng không quan trọng… Quan trọng là hắn muốn đoạt tòa tháp đó, muốn tất cả Phật đồ Nam Lý phục tùng hắn, ta sao có thể để hắn toại nguyện. Đệ tử phật môn từ bi, không tranh đoạt với thế giới, nhưng khi tà ma xuất hiện, trừ ma diệt đạo cũng là việc của ta. Đây cũng là bổn ý của tiền bối sư môn A Miêu.
Tống Dương nghe vậy vui vẻ nói:
- Sư thái là muốn….muốn sử dụng bảo bối kia?
- Yến đỉnh lấy pháp hiệu của ta đi làm việc ác, là kẻ địch của phật đồ thiên hạ. Mà tà ma thế lớn, đệ tử phật môn Nam Lý phân bè kết đảng, nếu không thể đồng tâm hiệp lực, làm sao có thể hộ pháp trừ ma, thanh Không Xá Lợi tháp đã nằm yên ngàn năm, nên đánh thức nó rồi.
Vô Ngư ngồi ngay ngắn:
- Không dùng được bao lâu, tôn giả chuyển thế chính là làm lại thế gian, Diệu Hương Cát Tường địa chính là nơi tu hành của nó, ta chọn phong ấp của ngươi là vì ngươi có mối thù sâu xa với yến đỉnh.
Tống Dương vui vẻ hướng lông mày, trước đây có liên quan, Sư thái muốn xây dựng Đại lôi âm đài của Nam Lý.Cố nhiên trở thành hư không, có một tháp bảo bối đó, tín đồ của tôn giả sẽ chuyển thế quy tâm, sư thái lập tức sẽ có “cục diện” cho dù triều đình không giúp đỡ, Diệu Hương Cát Tường sẽ trở thành thánh địa Phật giáo của Nam Lý, nhưng Tống Dương lòng tham vô đáy, không kìm nổi có chút tiếc nuối nho nhỏ:
- Đáng tiếc, nếu Tăng nhân của Yến quốc cũng tin vào truyền thuyết này thì tốt.
-Truyền thuyết tôn giả ở Đại Yến, không ảnh hưởng sâu đậm như ở Nam Lý, nhưng cũng không hẳn là không có ảnh hưởng.
Sư thái giọng nói nhỏ nhẹ, trong ngữ khí có mang theo vẻ tươi cười:
- Thật muốn truy cứu về thời xưa, lễ phật Nam Lý trước đó còn ở Yến quốc, bây giờ Yến quốc đã có không ít cổ tháp đại tự, ngược về cội nguồn vẫn là tăng lữ tây nam ta đã xây dựng trong thời kỳ truyền giáo phía bắc, trong trăm ngàn năm tăng lữ hai nơi lui tới đều chưa hề gián đoạn, đợi tin tức tôn giả chuyển thế truyền ra ngoài, chưa chắc không có cao tăng Yến quốc đến triều bái.
Tống Dương cười lớn, vui vẽ càng thêm vui vẻ, không gì có thể diễn tả được, nói với Vô Ngư sư thái:
- Hậu bối hiểu ít, bái kiến Ưu Lê tôn giả.
- Tôn giả Ngạch Lê ưu bác.
Vô Ngư bật cười, tiếp tục lắc đầu nói:
- Tôn giả này trừ phi vạn bất đắc dĩ, ta không muốn mình làm. Phật nói ‘vô ngã tương, vô nhân tương, vô chúng sinh tương’, lại không phân nam nữ, nhưng tôn giả chuyển thế thành một lão ni cô, chung quy vẫn cảm thấy có chút cổ quái.
- Lại chính là phúc của Thanh Mộc nâng đỡ, khiến lão ni cô có danh tiếng không tồi, ngoài bình định còn có thể dùng để làm một vài việc khác, ví dụ…., tôn giả chuyển thế không thể tự mình đi lôi kéo tín đồ được, nhưng ta có thể giúp hắn: Thêm nữa, dựa vào chút thanh danh của ta hiện nay, nếu dẫn đầu tán thành việc Tôn giả chuyển thế, ít nhiều có thể làm cho việc này thuận lợi hơn chút, về tôn giả có ai tới làm, ta cũng có người để lựa chọn.
Tống Dương đương nhiên biết người được chọn là ai:
- Thi Tiêu Hiểu?
- Bạch y vô diễm sinh diệu tương, thiếu niên có tài tinh thông phật pháp, Tôn giả chuyển thế không phải hắn ta thì còn ai nữa.
Vô Ngư sớm đã tính toán hết mọi việc:
- Khi ở địa lao, ta đã nói qua việc này với hắn ta, hắn ta đã đồng ý rồi.