Nhưng không phải tất cả mọi chuyện đều kết thúc không hay. Dẫu sao thì Jack vẫn còn sống. Tôi không muốn hỏi han quá nhiều vì như thế chỉ làm cho mọi người bực mình mà thôi, nhưng hình như là vừa mới phút trước Mõm Heo đang chuẩn bị cạo lông bụng con lợn thứ năm với Jack thì ngay phút sau gã ta nổi điên lên mà tấn công Jack.
Máu trên mặt Jack chỉ là máu lợn. Anh ấy bị một tấm ván gỗ đánh cho bất tỉnh. Sau đấy, Mõm Heo đi vào trong nhà chính và giật lấy đứa nhỏ. Gã muốn dùng đứa bé làm mồi nhử đến gần tôi để rồi gã có thể dùng dao giết tôi.
Dĩ nhiên, bây giờ khi tôi kể những chuyện này ra thì nghe không chính xác cho lắm. Thật ra đâu phải là Mõm Heo ra tay làm những chuyện kinh khủng này đâu. Gã ta đã bị ám cơ mà, và Mẹ Malkin chỉ lợi dụng thân thể của gã mà thôi. Vài tiếng sau, Mõm Heo tỉnh lại rồi ra về mà chẳng hiểu gì lắm cùng với một cái bụng rất đau. Dường như gã không nhớ nhiều lắm những chuyện đã xảy ra, vả lại chúng tôi chẳng ai muốn khai sáng cho gã cả.
Đêm ấy, không ai ngủ được nhiều. Sau khi nhóm cho đống lửa bừng sáng hơn, Ellie ở lì dưới bếp cả đêm và không để cho đứa nhỏ khuất xa tầm mắt. Jack đi nằm với cái đầu đau nhức nhưng anh ấy cứ thức dậy mãi để đi ra sân ói mửa.
Khoảng một tiếng đồng hồ trước khi trời rạng thì mẹ về đến nhà. Trông mẹ cũng không vui vẻ gì. Như thể đã có chuyện gì đấy không ổn.
Tôi nhấc túi xách mang vào nhà hộ mẹ. “Mẹ à, mẹ có sao không?” tôi hỏi. “Trông mẹ mệt mỏi lắm.”
“Đừng để ý đến mẹ làm gì, con trai ạ. Ở đây đã xảy ra chuyện gì thế? Nhìn vào mặt con là mẹ có thể nhận thấy có chuyện không ổn rồi.”
“Chuyện dài lắm mẹ ạ,” tôi đáp. “Tốt hơn ta nên vào nhà đã.”
Khi chúng tôi bước vào bếp, Ellie trông nhẹ cả người đến nỗi chị bật khóc, làm đứa bé cũng khóc theo. Khi đấy, Jack đi xuống nhà và mọi người nhao nhao lên kể cho mẹ nghe cùng một lúc, nhưng chỉ sau vài giây thì tôi đầu hàng vì Jack đã lớn tiếng buông ra mấy tràng nguyền rủa.
Mẹ làm anh im miệng khá nhanh. “Hạ giọng xuống đi Jack,” mẹ bảo. “Đây vẫn còn là nhà của mẹ và mẹ không chịu được tiếng quát tháo đâu.”
Jack dĩ nhiên là không thích bị tắt tiếng trước mặt Ellie như thế nhưng anh ấy biết tốt hơn là chẳng nên tranh cãi làm gì.
Mẹ bắt mỗi người chúng tôi kể lại chính xác những gì đã xảy ra, bắt đầu từ Jack. Tôi là phiên cuối cùng, và khi đến lượt tôi thì mẹ bảo Jack và Ellie đi ngủ để mẹ con chúng tôi có thể nói chuyện một mình. Mà mẹ có nói gì nhiều đâu. Mẹ chỉ im lặng lắng nghe, đoạn cầm lấy tay tôi.
Sau rốt, mẹ đi lên phòng của Alice và ngồi nói chuyện riêng với cô gái một lúc thật lâu.
Mặt trời ló dạng chưa được một tiếng đồng hồ thì Thầy Trừ Tà đến nhà tôi. Không biết là vì sao nhưng tôi đang vô cùng trông mong thầy đến. Thầy đứng chờ ngoài cổng để tôi đi ra thuật lại câu chuyện thêm lần nữa, thầy đứng tựa vào cây trượng mà lắng nghe. Khi tôi kể xong thì thầy chỉ lắc đầu.
“Anh bạn à, ta cảm giác được có chuyện gì đó không ổn, nhưng ta đã đến quá muộn. Thế nhưng con đã hành động sáng suốt. Con đã sử dụng trực giác và cố nhớ ra vài điều ta từng dạy cho con. Nếu tất cả những thứ khác đều thất bại, con luôn có thể quay lại sử dụng sắt và muối.”
“Lẽ ra con nên để cho Alice thiêu chết Mẹ Malkin phải không ạ?” tôi hỏi.
Thầy thở dài, đưa tay gãi gãi râu cằm. “Như ta đã nói rồi đấy thôi, việc thiêu chết một mụ phù thủy quá dã man và bản thân ta cũng không bám theo cách ấy.”
“Thế chắc là giờ đây con sẽ lại phải đối mặt với Mẹ Malkin nữa rồi,” tôi chán nản nói.
Thầy Trừ Tà mỉm cười. “Không có đâu anh bạn, con có thể an tâm được rồi vì mụ ta sẽ không quay lại thế gian này nữa đâu. Với kết cục đã xảy ra thì mụ ta sẽ không thể làm thế. Con có nhớ điều ta từng nói về việc ăn sống trái tim của phù thủy không? Thế đấy, đám lợn nhà con đã làm thế thay cho chúng ta rồi.”
“Không chỉ có tim thôi đâu ạ. Chúng ăn sạch sành sanh,” tôi bảo. “Vậy giờ con an toàn rồi phải không thầy? Thật an toàn chứ ạ? Mụ ta không thể quay lại nữa sao?”
“Ái chà, con chỉ an toàn với Mẹ Malkin mà thôi. Ngoài kia còn có bao nhiêu mối đe dọa nguy hiểm không kém, nhưng hiện giờ thì con an toàn đấy.”
Tôi cảm thấy hơi hơi nhẹ nhõm, như thể một khối nặng vừa được nhấc khỏi hai vai. Lâu nay tôi đã sống trong ác mộng, còn giờ đây, khi mối đe dọa về Mẹ Malkin đã được cất bỏ, thế giới này dường như thành một nơi hạnh phúc, xán lạn hơn. Rốt cuộc thì chuyện đã chấm dứt và tôi lại có thể bắt đầu tiến lên phía trước.
“À, con được an toàn cho đến khi lại phạm thêm một sai lầm ngớ ngẩn khác,” thầy thêm vào. “Mà đừng có nói là con sẽ không phạm sai lầm nhé. Kẻ không bao giờ phạm sai lầm là kẻ chẳng bao giờ làm được gì cả. Đấy là một phần trong chuyện học hỏi công việc đấy. Mà thôi, giờ cần phải làm gì đây?” thầy vừa hỏi vừa nheo nheo mắt khi mặt trời nhô cao.
“Vì chuyện gì ạ?” tôi hỏi lại, thắc mắc không biết ý thầy là gì.
“Về con bé ấy đấy anh bạn nhỏ. Có vẻ phải chèn nó xuống hố thôi. Ta thấy chẳng còn cách nào hơn cả.”
“Nhưng rốt cuộc bạn ấy đã cứu lấy con của Ellie đấy thôi,” tôi phản đối. “Và cứu cả mạng con nữa chứ.”
“Này anh nhóc, con bé ấy đã sử dụng gương. Đấy là dấu hiệu không tốt. Lizzie đã dạy cho con bé lắm điều. Quá nhiều. Giờ thì con bé đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là nó sẵn sàng sử dụng thứ ấy. Tiếp đến sẽ là gì nữa đây?”
“Nhưng bạn ấy có ý tốt. Bạn sử dụng phép thuật ấy chỉ để cố tìm xem Mẹ Malkin ở đâu mà thôi.”
“Có lẽ là thế, nhưng con bé biết quá nhiều với lại quá thông minh nữa. Bây giờ nó chỉ là con nhóc con, nhưng một ngày nào đấy con bé sẽ thành phụ nữ và một phụ nữ thông minh bao giờ cũng nguy hiểm cả.”
“Mẹ con cũng thông minh vậy,” tôi đốp lại, lòng bực bội về những gì thầy vừa nói. “Nhưng mẹ cũng nhân hậu nữa. Những gì mẹ làm là đều vì điều tốt. Mẹ sử dụng trí óc của mình để giúp mọi người. Có năm nọ, khi con còn rất nhỏ, những vãn hồn trên Đồi Treo Cổ đã làm con sợ hãi đến mức không thể ngủ được. Mẹ đã lên trên đồi ấy khi trời tối và làm cho những vãn hồn ấy im tiếng. Bọn chúng im tiếng ròng rã cả mấy tháng trời.”
Lẽ ra tôi nên nói thêm, rằng trong buổi sáng đầu tiên hai thầy trò tôi đi với nhau, Thầy Trừ Tà từng bảo tôi rằng với vãn hồn ta chẳng thể làm được gì nhiều. Mà mẹ tôi đã chứng minh là thầy nói sai. Nhưng tôi không nói thêm như thế. Tôi đã nói lung tung quá nhiều rồi nên điều này chẳng cần phải nói ra làm gì.
Thầy Trừ Tà chẳng nói chẳng rằng. Thầy chỉ nhìn đăm đăm vào gian nhà chính.
“Thầy đi hỏi mẹ con việc bà nghĩ thế nào về Alice đi ạ,” tôi gợi ý. “Có vẻ mẹ rất hợp với bạn ấy.”
“Đằng nào ta cũng sẽ hỏi thôi mà,” Thầy Trừ Tà đáp. “Cũng đã đến lúc bọn ta trao đổi chút ít rồi đây. Con hãy đứng chờ ở đây cho đến khi chúng ta nói chuyện xong.”
Tôi nhìn theo dáng thầy đi băng qua sân. Nhưng trước khi thầy đến nơi thì cánh cửa bếp đã mở ra và mẹ đứng bên ngưỡng cửa đón chào thầy.
Sau này, việc hình dung ra vài điều họ trao đổi cùng nhau cũng không phải là không thể, nhưng họ đã trao đổi gần cả tiếng đồng hồ và tôi chẳng bao giờ tìm hiểu được rằng chuyện về những vãn hồn ấy có được đề cập đến hay không. Cuối cùng, khi Thầy Trừ Tà bước ra ngoài ánh nắng mặt trời, mẹ tôi đứng ngay lối cửa. Lúc đấy thầy đã làm một việc bất thường – việc mà trước đây tôi chưa từng thấy thầy làm bao giờ. Thoạt tiên, tôi chỉ nghĩ là thầy gật đầu chào tạm biệt mẹ tôi thôi, nhưng còn có điều gì đấy hơn cả là một cái gật đầu. Còn có chút chuyển động của hai vai thầy nữa. Tuy chuyển động rất khẽ nhưng rất dứt khoát nên chẳng còn nghi ngờ gì. Khi từ biệt mẹ tôi, Thầy Trừ Tà đã khẽ cúi đầu chào.
Lúc băng qua sân tiến về phía tôi, thầy có vẻ như tự mỉm cười với mình. “Giờ ta sẽ quay lại Chipenden đây,” thầy bảo, “nhưng ta nghĩ mẹ con muốn con ở lại đây thêm một đêm nữa. Nhưng thôi, ta tùy con định liệu đấy. Hoặc là con đem con bé trở về để chúng ta chèn nó vào hố, hay con đưa nó đến với dì nó ở Staumin. Tùy con lựa chọn. Hãy vận dụng trực giác để xem điều nào là thích hợp. Rồi con sẽ biết mình nên làm gì.”
Đoạn thầy bỏ đi, để lại tôi với đầu óc xoay mòng. Tôi biết mình muốn làm gì với Alice, nhưng đấy phải là điều đúng đắn mới được.
Vậy là tôi được ăn thêm một buổi tối với mẹ.
Bấy giờ bố đã trở về, nhưng mặc dù mẹ vui vẻ khi gặp lại bố, vẫn có điều gì đấy không ổn lắm, một kiểu bầu không khí như một đám mây vô hình lơ lửng trên bàn ăn. Vì thế, đây không hẳn là một buổi tiệc ăn mừng gì và chẳng ai có lắm chuyện để nói cả.
Nhưng thức ăn thì ngon tuyệt, một trong những món súp đặc biệt của mẹ, cho nên tôi chẳng quan tâm lắm đến chuyện không ai nói năng gì – tôi đang mải bận rộn với việc nhét đầy bụng mình rồi ăn thêm suất nữa trước khi Jack kịp vét sạch đĩa.
Jack đã ăn ngon miệng trở lại nhưng anh ấy trông có đôi chút kìm nén cũng như mọi người khác. Anh ấy đã trải qua biết bao nhiêu chuyện, cái cục u to tướng trên trán anh chứng minh cho điều ấy. Về phần Alice, tôi không kể cho cô nghe những gì Thầy Trừ Tà đã nói nhưng tôi có cảm giác dẫu sao cô cũng biết hết rồi. Trong suốt bữa ăn Alice không hé răng lấy một lời. Nhưng người im lặng nhất phải là Ellie. Mặc dù hạnh phúc vì lấy lại được đứa con, những gì chị ấy phải chứng kiến đã làm chị bối rối đến nỗi phải mất thời gian lắm mới xoa dịu được.
Khi mọi người khác đã về giường ngủ, mẹ bảo tôi ngồi lại. Tôi ngồi bên lò sưởi trong bếp, giống như trong cái đêm trước hôm tôi rời gia đình bắt đầu kỳ tập sự của mình. Nhưng có điều gì đấy trên gương mặt mẹ báo cho tôi biết cuộc nói chuyện này sẽ khác. Lần trước, mẹ trông cứng rắn nhưng tràn trề hy vọng với tôi. Trông tự tin rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thỏa cả thôi. Lần này, mẹ chỉ trông buồn rầu và ngần ngại.
“Hai mươi năm nay mẹ đã giúp đỡ đẻ bao em bé trong Hạt,” mẹ ngồi trên ghế đu và nói, “và cũng có vài bé mất đi. Mặc dù với người bố và người mẹ thì chuyện đấy buồn thật, nhưng đấy chỉ là chuyện thường tình mà thôi. Chuyện này cũng xảy ra với cả vật nuôi trong nông trại nữa đấy Tom. Bản thân con cũng đã thấy qua rồi.”
Tôi gật đầu. Mỗi năm luôn có vài con cừu non chết lúc mới sinh. Đấy là chuyện ai cũng biết sẽ xảy ra.
“Nhưng lần này là tồi tệ nhất,” mẹ bảo. “Lần này cả người mẹ lẫn đứa trẻ đều chết, là một chuyện trước nay chưa từng xảy đến với mẹ. Mẹ hiểu biết hết các loại dược thảo thích hợp và biết cả cách pha trộn chúng nữa. Mẹ biết cách đương đầu với việc máu chảy quá nhiều. Mẹ biết cần phải làm gì. Vả lại người mẹ này vừa trẻ vừa khỏe mạnh. Lẽ ra cô ấy không phải chết nhưng mẹ không thể cứu lấy cô ấy. Và chuyện này khiến mẹ đau đớn trong này đây. Đau đớn ngay trong tim mẹ.”
Mẹ như nấc lên và đưa tay ghì vào ngực. Trong một khoảnh khắc thê lương tôi nghĩ bà sẽ bật khóc, nhưng rồi mẹ chỉ hít vào một hơi thật sâu và nghị lực quay trở lại trên gương mặt bà.
“Nhưng cừu cũng chết mà mẹ, đôi khi bò cũng chết lúc sinh đẻ nữa mà,” tôi bảo với bà. “Rồi sẽ có lúc nào đó một người mẹ cũng buộc phải chết. Việc mẹ lâu nay chưa từng để chuyện đó xảy ra đã là một kỳ tích rồi.”
Tôi đã cố hết sức nhưng an ủi mẹ khó khăn lắm thay. Mẹ để cho chuyện ấy ảnh hưởng sâu sắc đến mình. Chuyện ấy khiến mẹ nhìn nhận đến khía cạnh u ám của vạn vật.
“Thế giới đang trở nên tăm tối hơn đấy, con trai ạ,” mẹ bảo tôi. “Và chuyện này xảy đến nhanh hơn là mẹ tưởng. Mẹ từng hy vọng trước hết con phải trưởng thành đã, với hàng năm kinh nghiệm trong mình. Vậy nên con phải chăm chú lắng nghe những gì thầy con dạy bảo. Từng điều nhỏ nhặt vẫn rất hữu ích. Con sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng nhanh hết mức có thể và phải học thật chăm môn tiếng La Tinh vào.”
Nói đến đây mẹ ngưng lại và chìa tay ra. “Cho mẹ xem cuốn sách nào.”
Mẹ lật qua những trang sách khi tôi đưa nó cho mẹ, mẹ cũng dừng lại đây đó mà đọc vài dòng. “Sách có giúp ích gì được con không?” mẹ hỏi.
“Chẳng nhiều nhặn gì ạ,” tôi thú nhận.
“Chính tay thầy con viết ra đấy. Thầy không bảo với con sao?”
Tôi lắc đầu. “Alice bảo cuốn sách được cha xứ viết ra.”
Mẹ mỉm cười. “Thầy con từng là một cha xứ. Thầy ấy đã bắt đầu như thế. Một ngày nào đó chắc chắn thầy sẽ bảo cho con biết thôi. Nhưng con đừng hỏi. Cứ để cho thầy tự nói ra trong thời điểm thích hợp.”
“Mẹ và thầy Gregory đã trao đổi gì thế ạ?” tôi hỏi.
“Chuyện này chuyện nọ ấy mà, nhưng chủ yếu là về Alice. Thầy hỏi mẹ chuyện gì nên xảy đến cho con bé. Mẹ bảo thầy nên để tùy con quyết định. Thế con đã quyết định chưa vậy?”
Tôi nhún vai. “Con vẫn chưa rõ phải làm gì nhưng thầy Gregory bảo con nên tin vào trực giác.”
“Đấy là một lời khuyên rất ý nghĩa đấy con trai,” mẹ bảo.
“Nhưng mẹ thì nghĩ sao hả mẹ? Mẹ đã nói gì với thầy Gregory về Alice thế? Phải Alice là phù thủy không? Ít nhất mẹ nói cho con biết điều này đi.”
“Không phải,” mẹ từ tốn nói, thận trọng cân nhắc lời lẽ của mình. “Con bé không phải phù thủy, nhưng một ngày nào đó nó sẽ thành phù thủy thôi. Con bé được sinh ra với trái tim làm phù thủy nên nó chẳng còn có lựa chọn nào khác hơn là phải đi theo con đường đấy.”
“Thế thì bạn ấy phải bị chèn xuống hố ở Chipenden thôi,” tôi buồn bã nói, rũ đầu xuống.
“Con nhớ lại mấy bài học của mình đi,” mẹ tôi đanh giọng. “Nhớ lại những gì thầy con đã dạy. Có nhiều hơn một loại phù thủy đấy.”
“A loại lành,” tôi reo lên. “Mẹ muốn nói rằng Alice rồi sẽ trở thành một phù thủy tốt bụng chuyên giúp kẻ khác phải không ạ?”
“Có thể. Mà cũng có thể không. Con có biết thực ra mẹ nghĩ gì không? Có lẽ con không muốn nghe đâu.”
“Con muốn chứ ạ.”
“Alice có thể trở thành loại không tốt cũng không ác. Con bé có thể thành một loại nào đó giữa lưng chừng hai loại ấy. Như thế sẽ khiến cho việc quen biết con bé trở nên rất nguy hiểm. Alice có thể là thảm họa của cuộc đời con, là tai ương, là thuốc độc trong tất cả mọi chuyện con làm. Hay nó cũng có thể trở thành một người bạn mạnh mẽ và thân thiết nhất mà con sẽ từng có. Một người có thể tạo nên biết bao khác biệt cho thế giới này. Mẹ chỉ không biết là chuyện này sẽ chuyển theo hướng nào thôi. Mẹ không thể nhìn ra được dù đã cố gắng hết sức.”
“Mà làm sao mẹ lại có thể nhìn ra được vậy?” tôi hỏi. “Thầy Gregory bảo thầy không tin vào lời tiên tri. Thầy bảo rằng tương lai là bất định.”
Mẹ đặt một tay lên vai tôi rồi bóp nhẹ để trấn an. “Mỗi người chúng ta đều có một lựa chọn nào đó mở ra cho mình,” mẹ nói. “Nhưng có lẽ một trong những quyết định quan trọng nhất mà con sẽ phải đưa ra là về Alice. Giờ con đi ngủ đi, và nếu được thì ngủ cho đẫy giấc vào. Ngày mai, khi mặt trời soi sáng thì con hẵng quyết định.”
Một điều mà tôi không hỏi mẹ là làm thế nào bà đã khiến cho các vãn hồn trên Đồi Treo Cổ im tiếng. Đấy cũng lại là do trực giác của tôi. Tôi chỉ biết rằng đấy là điều mẹ sẽ không muốn đề cập đến. Trong gia đình, đôi khi có những chuyện ta không nên hỏi. Ta biết ta sẽ được nói cho nghe khi đến thời điểm thích hợp.
Chẳng mấy chốc, sau khi mặt trời ló dạng thì chúng tôi rời khỏi nhà, trái tim tôi trĩu nặng xuống tận ủng.
Ellie đi theo tôi ra đến cổng. Tôi dừng lại ở đấy nhưng vẫy tay ra hiệu cho Alice đi tiếp lên đồi, hông cô đong đưa, chẳng liếc lui lại một lần.
“Chị có điều này cần nói với em đấy Tom,” Ellie bảo. “Nói ra đau lòng lắm nhưng cũng phải nói thôi.”
Nghe giọng chị ấy tôi cũng có thể đoán ra sẽ không tốt lành gì rồi. Tôi khổ sở gật đầu và ép mình ngước lên nhìn vào mắt chị. Bất ngờ quá đỗi, hai mắt chị đang ứa tràn nước mắt.
“Em vẫn được chào đón tại đây Tom à,” Ellie vừa nói vừa vuốt tóc lòa xòa khỏi trán, gượng mỉm cười. “Chuyện đấy thì không thay đổi. Nhưng anh chị phải nghĩ đến cho em bé nữa. Vậy nên em vẫn được chào đón ở đây, nhưng không phải sau khi trời tối. Em thấy đấy, đấy là chuyện khiến cho dạo gần đây Jack nóng nảy đến vậy. Chị không muốn nói cho em biết anh ấy đã cảm nhận mạnh mẽ đến mức nào, nhưng giờ chị phải nói thôi. Anh ấy chẳng thích loại công việc mà em làm chút nào cả. Không một chút xíu nào. Công việc ấy làm cho Jack ghê tởm. Với lại anh còn sợ cho đứa bé nữa.
“Anh chị thấy sợ, em biết đấy. Anh chị sợ rằng nếu em ở đây khi trời tối thì em có thể sẽ lôi kéo theo thứ khác nữa. Em có thể mang đến điều xấu xa nào đó cùng em, còn anh chị lại không dám để cho bất cứ chuyện gì xảy đến với gia đình. Tom này, em hãy đến thăm mọi người vào ban ngày nhé. Hãy đến thăm anh chị khi mặt trời chói chang và chim chóc líu lo ấy.”
Đến đây Ellie ôm chầm lấy tôi, làm cho mọi chuyện thêm đau đớn. Tôi biết đã có thứ gì đó xen vào giữa chúng tôi và mọi việc đã đổi thay vĩnh viễn. Tôi chỉ muốn bật khóc, nhưng chẳng hiểu sao tôi tự cầm lòng được. Tôi không biết mình đã làm thế như thế nào. Trong cổ họng tôi có một cục nghẹn to tướng làm tôi chẳng nói được nên lời.
Tôi nhìn theo Ellie trở vào trong nhà rồi chú tâm trở lại với quyết định mình phải đưa ra.
Tôi nên làm gì với Alice đây?
Khi thức dậy, tôi biết chắc rằng nhiệm vụ của mình là đưa cô gái quay lại Chipenden. Có vẻ như đấy là chuyện đúng đắn nên làm. Là chuyện an toàn. Cảm giác như đấy là nghĩa vụ. Khi tôi đưa cho Mẹ Malkin mấy chiếc bánh, tôi đã để cho phần con tim mềm yếu của tôi thống trị mình. Và hãy nhìn xem điều ấy đã mang lại cho tôi những gì nào. Cho nên tốt hơn là đối phó với Alice ngay lúc này, trước khi đã quá muộn. Như Thầy Trừ Tà nói, ta phải nghĩ đến những người vô tội trong tương lai có thể bị hãm hại nữa.
Ngày đầu chuyến đi chúng tôi không nói chuyện với nhau nhiều. Tôi chỉ bảo với Alice là chúng tôi quay trở về Chipenden để gặp Thầy Trừ Tà. Nếu Alice mà biết chuyện gì sắp xảy đến với mình, cô ấy chắc không phàn nàn gì. Thế rồi sang ngày thứ hai, khi chúng tôi tiến gần đến làng hơn và thực chất là đang trên những sườn đồi dưới chân rặng núi đá, cách nhà Thầy Trừ Tà khoảng một dặm, tôi nói cho Alice nghe về những gì tôi mãi chôn chặt trong lòng mình; về những gì đã khiến tôi lo ngại kể từ khi tôi phát hiện ra những chiếc bánh ấy chứa thứ gì.
Chúng tôi đang ngồi bên bờ sông ngập cỏ gần phía con đường. Mặt trời đã lặn và ánh sáng ban ngày bắt đầu lịm dần.
“Alice này, có khi nào cậu nói dối chưa?” tôi hỏi.
“Con người ta đôi khi phải nói dối chứ,”Alice trả lời. “Nếu không nói dối thì không phải con người đâu. Nhưng đa phần là tớ nói thật không thôi.”
“Thế còn trong cái đêm tớ bị mắc bẫy dưới cái hố ấy thì sao? Khi tớ hỏi cậu về mấy chiếc bánh ấy. Cậu bảo chẳng có đứa trẻ nào khác trong nhà Lizzie cả. Có thật không?”
“Tớ không thấy đứa nào hết.”
“Đứa bé đầu tiên bị lạc mất còn bé như trẻ sơ sinh vậy. Nó chẳng thể nào tự mình lang thang đi đâu được cả. Cậu chắc chứ?”
Alice gật gật và cúi đầu, nhìn chăm chăm xuống cỏ.
“Thế chắc là nó bị đám chó sói lôi đi rồi,” tôi bảo. “Dân trong làng cho là vậy đấy.”
“Lizzie bảo dì ấy từng nhìn thấy chó sói trong vùng này. Có thể là vậy lắm,” Alice đồng tình.
“Thế còn về mấy chiếc bánh thì sao hả Alice? Trong bánh có gì thế?”
“Chủ yếu là mỡ lòng bò và vụn thịt heo. À, còn có cả vụn bánh mì nữa.”
“Thế còn máu trong ấy thì sao? Máu súc vật không đủ giúp cho Mẹ Malkin đâu. Chắc chắn là không khi mụ ta phải cần đến từng ấy sức mạnh để bẻ cong song sắt trên miệng hố. Vậy máu ấy ở đâu ra hả Alice – máu được dùng trong bánh ấy?”
Alice bắt đầu nức nở. Tôi kiên nhẫn chờ cho cô nín hẳn rồi mới hỏi lại.
“Thôi, thế máu ở đâu ra nào?”
“Lizzie bảo tớ còn là con nít,” Alice kể lể. “Bọn họ dùng máu tớ lắm lần rồi. Cho nên dùng thêm một lần nữa cũng chẳng sao. Chẳng đau đớn gì lắm. Nhất là khi cậu đã quen với nó rồi. Mà làm sao tớ có thể ngăn được Lizzie cơ chứ?”
Nói đến đây, Alice vén tay áo lên và để lộ cho tôi thấy cánh tay mình. Ánh sáng vẫn còn đủ rõ để nhìn thấy các vết sẹo. Mà rất lắm sẹo – có vết cũ; có vết còn tương đối mới. Vết mới nhất vẫn chưa liền lại hẳn. Vết thương vẫn còn chảy nước.
“Còn nhiều hơn thế nữa kia. Nhiều lắm. Nhưng tớ không thể cho cậu xem hết được,” Alice bảo.
Tôi chẳng biết nói gì nên đành im miệng. Nhưng tôi đã quyết rồi, chẳng bao lâu sau chúng tôi hòa mình vào bóng đêm, rời xa Chipenden.
Tôi đã quyết định đưa Alice thẳng đến Staumin, nơi dì của cô cư ngụ. Tôi không thể chịu được ý nghĩ rằng Alice phải bị nhốt xuống hố trong vườn nhà Thầy Trừ Tà. Như thế thì kinh khủng quá – và tôi nhớ lại một cái hố khác. Tôi nhớ lại Alice đã giúp tôi thoát ra khỏi hố của Tusk như thế nào trước khi Lizzie Xương Xẩu đến rút xương của tôi. Nhưng trên hết, chính những điều Alice vừa kể với tôi rốt cuộc đã khiến tôi đổi ý. Đã có một thời, cô cũng từng là một trong những người vô tội. Alice cũng là nạn nhân mà thôi.
Chúng tôi trèo qua mỏm Parlick, rồi đi lên hướng bắc về phía đồi Blindhurst, lúc nào cũng đi trên vùng cao nguyên.
Tôi thích cái ý tưởng đi đến Staumin. Nơi ấy gần bờ biển và trước nay tôi chưa từng trông thấy biển bao giờ, ngoại trừ những lúc đứng trên đỉnh đồi đá. Con đường tôi chọn hơi xa, nhưng tôi khao khát được thám hiểm và được lên cao trên này cho gần với mặt trời. Dù sao thì Alice chẳng có vẻ gì bất mãn về điều ấy.
Chuyến đi thật suôn sẻ và tôi thích được ở bên Alice, và đấy là lần đầu tiên chúng tôi thực sự trò chuyện với nhau. Cô gái cũng dạy cho tôi nhiều điều. Alice biết tên các vì sao nhiều hơn tôi và bắt thỏ thì giỏi khỏi chê.
Còn về các loài cây cỏ, Alice là chuyên gia về những thứ mà từ trước đến nay Thầy Trừ Tà chưa từng đề cập đến, như là cây cà độc dược và cây nhân sâm. Tôi không phải tin hết những gì cô nói, nhưng dù sao tôi cũng ghi chép lại tất vì Alice đã được Lizzie dạy cho như thế và tôi nghĩ học hỏi lấy những điều mà phù thủy tin vào cũng có ích lắm chứ. Alice rất giỏi phân biệt nấm ăn và nấm độc, mà có vài loại độc đến mức chỉ cắn một miếng thôi là đủ để tim bạn ngừng đập hay làm bạn mất trí. Tôi có mang theo sổ ghi chép bên mình và dưới tiêu đề “Thực vật học”, tôi đã thêm được ba trang chứa đầy những thông tin bổ ích.
Một đêm nọ, khi chúng tôi còn cách Staumin non một ngày đường, chúng tôi dừng chân trong một khoảng rừng phát quang. Chúng tôi vừa mới nướng lụi xong hai con thỏ trong than hồng cho đến khi thịt tan ra trong miệng. Ăn xong, Alice làm một điều rất lạ. Sau khi quay mặt lại đối diện với tôi, cô gái với tay ra nắm lấy tay tôi.
Chúng tôi ngồi như thế một đỗi. Alice nhìn chăm chăm vào đống lửa tàn trong khi tôi chăm chú ngó lên sao trời. Tôi không muốn giằng tay ra nhưng ruột gan tôi thì rối ren vô hạn. Tay trái tôi nắm lấy tay trái của Alice và tôi cảm thấy thật tội lỗi. Tôi có cảm giác như mình đang bắt tay cùng với thế lực bóng tối, và tôi biết Thầy Trừ Tà sẽ chẳng thích như thế này đâu.
Chẳng cách nào tôi chối bỏ sự thật được. Ngày nào đó rồi Alice sẽ trở thành phù thủy. Nghĩ đến đấy, tôi chợt nhận ra mẹ tôi nói đúng. Chẳng có liên quan gì đến lời tiên đoán nào cả. Bạn có thể nhìn thấy điều ấy trong mắt Alice. Cô ấy luôn luôn lơ lửng đâu đó giữa hai bên, chẳng khi nào toàn tâm xấu xa hay toàn tâm thánh thiện. Nhưng chẳng phải tất cả chúng ta ai cũng thế hay sao? Chúng ta không ai là hoàn hảo cả.
Vậy nên tôi không rụt tay về. Tôi chỉ ngồi đó, một phần trong tôi tận hưởng việc cầm lấy tay Alice, cảm giác như thể vỗ về an ủi sau những gì đã xảy ra, trong khi phần còn lại của tôi vã mồ hôi vì mặc cảm tội lỗi.
Chính Alice mới là người rụt tay về. Cô rút tay ra khỏi bàn tay tôi rồi chạm vào cánh tay, nơi những móng tay của cô ấy đã bấu vào trong cái đêm chúng tôi hủy diệt Mẹ Malkin. Bạn có thể nhìn thấy những vết sẹo rõ rành rành trong ánh sáng của đống than hồng.
“Tớ đã đóng dấu của mình lên cậu rồi nhé,” Alice vừa nói vừa cười nhẹ. “Chúng sẽ chẳng bao giờ mờ đi đâu.”
Tôi nghĩ câu nói ấy thật kỳ lạ và cũng không chắc cô ấy muốn nói gì. Hồi ở nhà, chúng tôi thường đóng dấu lên gia súc. Chúng tôi làm thế để chứng tỏ đám gia súc ấy thuộc về nhà mình và để những con đi rông không bị lẫn vào với gia súc bên những nông trại lân cận. Nhưng làm sao tôi lại có thể thuộc về Alice cơ chứ?
Ngày hôm sau, chúng tôi đi xuống khu đồng bằng rộng lớn, bằng phẳng. Một phần khu đất ấy là đất bám rêu với phần khó đi nhất là phần đầm lầy lỏng bỏng nhão nhoét, nhưng dần dà rồi chúng tôi cũng tìm được đường đi đến Staumin. Tôi chẳng thấy được mặt bà dì của Alice vì bà ta không chịu ra ngoài nói chuyện với tôi. Dù vậy nhưng bà ta cũng đồng ý nhận Alice vào nhà nên tôi chẳng thể phàn nàn được gì.
Cạnh đấy là một con sông to rộng, và trước khi quay trở lại Chipenden, chúng tôi đi bộ dọc bờ sông ra đến tận biển. Thực sự tôi chẳng thấy choáng ngợp gì lắm. Hôm ấy là một ngày xám xịt, gió thốc và mặt nước có cùng màu với đám mây trên bầu trời, còn những con sóng thì cuồn cuộn dữ tợn.
“Ở đấy cậu sẽ ổn thôi mà,” tôi lên tiếng, cố ra giọng vui vẻ. “Khi mặt trời mọc quang cảnh sẽ đẹp lắm đây.”
“Thì cũng phải tận dụng tối đa khía cạnh tốt đẹp thôi,” Alice bảo. “Chẳng thể nào mà tệ hơn ở Pendle được.”
Đột nhiên tôi lại thấy thương cho cô. Đôi lúc tôi có cảm thấy cô đơn thật, nhưng ít ra tôi còn có Thầy Trừ Tà để trò chuyện cùng; Alice thậm chí còn không biết rõ bà dì của mình lắm, rồi thêm biển động càng làm cho mọi chuyện có vẻ như lạnh lùng ảm đạm.
“Này Alice, tớ không nghĩ chúng ta sẽ gặp lại nhau, nhưng nếu cậu cần giúp đỡ, cứ cố chuyển lời đến cho tớ,” tôi dặn dò.
Tôi nghĩ mình nói ra như vậy vì Alice là người giống với bạn bè hơn cả mà tôi từng có. Còn về lời hứa này, nó cũng chẳng đến mức khinh suất như lời đầu tiên tôi từng hứa. Tôi không cam đoan là mình thực ra phải làm những gì. Lần tới nếu Alice có hỏi nhờ gì, tôi sẽ bàn bạc trước với Thầy Trừ Tà đã.
Ngạc nhiên làm sao là Alice mỉm cười và trong mắt ánh lên vẻ lạ lẫm. Ánh mắt ấy gợi cho tôi nhớ đến lời bố tôi từng nói, rằng phụ nữ nhiều khi biết đến những điều mà đàn ông không hề biết – và hễ khi mà bạn nghi là thế thì đừng bao giờ nên hỏi phụ nữ đang nghĩ gì.
“Ồ, chúng ta sẽ gặp lại nhau thôi,” Alice bảo. “Chuyện này thì không có gì phải nghi ngờ cả.”
“Thôi, tớ phải đi đây,” tôi nói và quay lưng dợm bước.
“Tớ sẽ nhớ cậu đấy Tom ạ. Không có cậu thì mọi chuyện sẽ không như thế đâu.”
“Tớ cũng sẽ nhớ cậu đấy Alice,” tôi mỉm cười bảo với cô ấy.
Khi thốt lên lời ấy, tôi tưởng chỉ là do phép lịch sự. Nhưng cất bước lên đường chưa tới mười phút thì tôi biết mình đã lầm.
Tôi đã thành tâm với từng lời mình nói và tôi đang cảm thấy cô đơn mất rồi.