Chương 22: Chương 22

Anne không biết rằng bé Elizabeth đã khát khao ngóng theo cô từ một trong những ô cửa sổ áp mái của Trại Thường Xuân khi cô ngồi xe rời khỏi Bạch Dương Lộng Gió… Elizabeth nước mắt lưng tròng, cảm thấy giờ đây mọi đáng giá trong cuộc sống đã rời khỏi cuộc đời mình và cô bé hiện đang là cô nàng Lizzie tồi tệ nhất trong số các cô nàng Lizzie. Nhưng khi chiếc xe trượt chở khách biến mất khỏi tầm mắt sau khúc quanh cuối đường Ma, Elizabeth đi đến quỳ xuống bên giường.

“Chúa thương yêu,” cô bé thì thầm, “con biết có cần xin Người một Giáng sinh vui vẻ cũng vô dụng vì bà cố và bà giúp việc không thể nào vui vẻ nổi, nhưng xin hãy ban cho cô Shirley yêu quý của con một Giáng sinh hết sức vui vẻ hạnh phúc và đưa cô ấy trở lại an toàn cho con khi Giáng sinh đã trôi qua.”

“Bây giờ thì,” Elizabeth đứng dậy, “mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm rồi.”

Anne đã bắt đầu nhấm nháp được niềm hạnh phúc Giáng sinh lan tỏa. Cô gần như sáng bừng lên khi đoàn tàu rời ga. Những con phố xấu xí trượt lùi về phía sau… cô đang đi về nhà… tổ ấm ở Chái Nhà Xanh. Ra đến vùng thoáng đãng, cả thế giới ngập tràn trong sắc trắng lóa và tím nhạt, thi thoảng đan xen những hàng linh sam sẫm màu kỳ diệu và những thân bạch dương không lá mảnh dẻ. Mặt trời thấp lè tè sau cánh rừng trơ trọi, lùa qua rặng cây như một vị thần lộng lẫy khi đoàn tàu tăng tốc. Katherine im lặng nhưng trông cô không quá khó chịu.

“Đừng chờ mong tôi nói chuyện,” cô cảnh cáo Anne một cách cộc lốc.

“Tôi sẽ không trò chuyện gì đâu. Tôi mong cô đừng nghĩ rằng tôi là loại người khó ưa khiến cô cảm thấy cô lúc nào cũng phải nói chuyện. Chúng ta sẽ chỉ nói chuyện khi cảm thấy thích. Tôi thừa nhận rằng đa số thời gian tôi khá thích mở miệng, nhưng cô không cần chịu trách nhiệm để tâm đến điều tôi nói.”

Davy đến đón họ ở trạm sông Bright với một chiếc xe trượt hai chỗ lớn nhất chất đầy áo lông… và một cái ôm siết chặt cho Anne. Hai cô gái ngồi sát vào nhau ở ghế sau. Chuyến đi từ nhà ga về Chái Nhà Xanh luôn là khoảng thời gian rất dễ chịu đối với Anne trong những dịp về nhà cuối tuần. Cô luôn luôn nhớ lại chuyến xe đầu tiên về nhà từ trạm sông Bright với Matthew. Lúc đó là mùa xuân còn giờ đã vào tháng Mười hai, nhưng tất cả mọi thứ dọc theo con đường cứ mãi gọi với theo cô, “Còn nhớ hay không?” Tuyết giòn tan dưới bánh trượt; nhạc chuông rung leng keng len lỏi qua hàng linh sam cao nhọn hoắt với tuyết đọng trĩu trịt. Đường Hạnh Phúc Trắng với những ngôi sao li ti giăng mắc trên những ngọn cây. Và trên ngọn đồi áp cuối họ nhìn thấy vịnh biển mênh mông, trắng xóa và lấp lánh dưới ánh trăng dẫu chưa bị đóng băng.

“Có một vị trí đặc biệt trên con đường này khiến tôi luôn chợt cảm thấy rằng… ‘Mình đã về đến nhà,’” Anne thốt lên. “Nó nằm ở đỉnh đồi kế tiếp, từ đó chúng ta sẽ nhìn thấy ánh đèn tỏa ra từ Chái Nhà Xanh. Giờ tôi chỉ mơ đến bữa tối mà bác Marilla sắp dọn ra đón chờ. Tôi tin rằng mình có thể ngửi thấy mùi thơm của nó từ đây. Ôi, thật tuyệt… tuyệt vời… được trở về nhà một lần nữa!”

Ở Chái Nhà Xanh, mỗi ngọn cây ngoài vườn cũng như chào đón cô trở lại… mỗi ô cửa sổ sáng như đang mời gọi. Và mùi thức ăn ngon tuyệt lan tỏa trong nhà bếp của bà Marilla khi họ mở cửa. Những vòng ôm siết chặt, tiếng reo vui và cười đùa. Thậm chí Katherine bằng cách nào đó cũng trở thành một trong số họ, không còn là người ngoài nữa. Bà Rachel Lynde đặt chiếc đèn bàn quý giá của mình lên bàn tiệc tối và thắp sáng nó. Trông nó thực sự rất kinh với quả cầu đỏ xấu xí, nhưng ánh đèn hồng hào ấm áp bao trùm mọi nơi thì thật tuyệt! Ngay cả những chiếc bóng cũng ấm áp và thân thiện làm sao! Dora càng lớn càng xinh! Và Davy hầu như đã mang dáng vẻ của một người đàn ông trưởng thành, thật đấy.

Có nhiều tin mới cần kể lại. Diana sinh con gái… Josie Pye thực sự kiếm được một chàng trai trẻ… và nghe đồn Charlie Sloane đã đính hôn. Chúng thú vị chẳng kém gì tin tức quốc gia. Bà Lynde vừa may xong một tấm chăn chần khâu ghép lại từ năm ngàn mảnh nhỏ, tấm chăn được trưng bày và nhận được những lời khen ngợi xứng đáng.

“Mỗi khi cô về, cô Anne ơi,” Davy nhận xét, “tất cả mọi thứ như trở nên sống động hẳn lên.”

“Uiii, cuộc đời phải như thế này mới sướng chứ,” chú mèo con của Dora kêu rừ rừ.

“Tôi lúc nào cũng thấy khó mà kháng cự lại lời mời gọi của một đêm sáng trăng,” Anne nói sau bữa tối. “Đi bộ trong tuyết một chuyến nhé, cô Brooke? Tôi nhớ mình có nghe nói cô có đi bộ trong tuyết.”

“Ừ… đó là điều duy nhất tôi biết làm… nhưng tôi đã không đi sáu năm nay rồi,” Katherine nhún vai đáp.

Anne lục lọi trong gác xép tìm đôi dép liếp đi tuyết của mình, còn Davy chạy ào qua dốc Vườn Quả để mượn một đôi liếp cũ của Diana cho Katherine. Họ đi dọc đường Tình Nhân đầy những bóng cây yểu điệu, băng qua đồng cỏ nơi những cây linh sam lúp xúp mọc rìa hàng rào, xuyên qua cánh rừng đầy những bí mật mà những hàng cây suýt nữa đã thì thầm thổ lộ với ta, nhưng chẳng bao giờ làm kịp… và ngang qua những khoảnh đất trống nhìn hệt như những vũng nước bạc.

Họ không trò chuyện hoặc không muốn nói chuyện. Cứ như thể họ sợ mở miệng làm hỏng mất điều gì đó thật mỹ lệ vậy. Nhưng Anne chưa bao giờ cảm thấy gần gũi với Katherine Brooke đến thế. Bởi vài phép màu của riêng nó, đêm đông đã đưa họ đến với nhau… gần như ở bên nhau, nhưng không hẳn là thế.

Khi họ đi ra đến đường chính và một chiếc xe trượt tuyết chạy lướt qua, chuông leng keng, tiếng cười reo vang, hai cô gái thở hắt ra tiếc nuối. Dường như bọn họ đã để lại đằng sau một thế giới chẳng có điểm gì chung với thế giới mà họ đang trở về… một thế giới nơi thời gian không tồn tại… vĩnh viễn trẻ trung với tuổi thanh xuân bất hủ… nơi linh hồn gắn bó với nhau chẳng cần dùng tới những lời thô thiển.

“Thật tuyệt vời,” Katherine thốt lên với chính bản thân mình, rõ ràng là thế nên Anne không đáp lại.

Họ đi xuống đường rồi vòng lên đường mòn dẫn đến Chái Nhà Xanh, nhưng ngay trước khi đến cổng, hai người họ dừng lại theo lời kêu gọi của cơn bốc đồng chung, dựa vào hàng rào cũ phủ rêu, đứng đó trong im lặng, ngắm ngôi nhà cũ xưa suy tư đầy tình mẹ lờ mờ sau tấm màn cây. Chái Nhà Xanh trong đêm đông đẹp biết bao!

Hồ nước Lấp Lánh bên dưới đã bị khóa chặt trong băng giá, những bóng cây lố nhố viền quanh mép hồ. Khắp nơi yên ắng bao trùm, ngoại trừ tiếng vó ngựa lọc cọc ngắt quãng trên cầu. Anne mỉm cười nhớ lại mình vẫn thường nằm lắng nghe âm thanh đó trong gian phòng chái và tưởng tượng rằng đó là tiếng vó ngựa tiên lướt qua trong đêm.

Đột nhiên có tiếng động phá vỡ sự tĩnh lặng.

“Katherine… chị… ôi chao, chị đang khóc sao!”

Chẳng hiểu sao nhưng thật khó tưởng tượng cảnh Katherine khóc. Nhưng cô đang khóc thật. Và những giọt nước mắt chợt khiến cô người hơn. Anne không còn cảm thấy sợ cô nữa.

“Katherine… Katherine thân yêu… chuyện gì vậy? Em có thể giúp gì không?”

“Ôi… cô không hiểu nổi đâu!” Katherine nức nở. “Mọi chuyện luôn thuận chèo mát mái với cô. Cô… cô cứ như đang sống trong một vòng tròn nhiệm màu đầy màu sắc và lãng mạn. ‘Mình tự hỏi sẽ phám phá ra điều gì thú vị hôm nay’… đó dường như là thái độ của cô đối với cuộc sống, Anne ạ. Còn tôi, tôi đã quên cách thức sống rồi… không, tôi chẳng bao giờ biết nên sống thế nào. Tôi… tôi như một sinh vật sập bẫy. Tôi chẳng bao giờ thoát ra được… và dường như tôi luôn cảm thấy có ai đó cứ mãi thọc gậy vào tôi qua song sắt. Còn cô… cô có quá nhiều hạnh phúc đến mức chẳng biết làm gì với chúng… bạn bè ở khắp nơi, người yêu nữa! Không phải là tôi muốn người yêu… tôi ghét đàn ông… nhưng nếu tôi chết đêm nay, chẳng có một linh hồn nào trên đời thèm nhớ đến tôi. Cô sẽ cảm thấy thế nào nếu mình hoàn toàn cô độc không bạn bè trên thế giới này?”

Giọng Katherine vỡ òa nức nở.

“Katherine, chị từng nói là chị thích sự thẳng thắn. Em sẽ thẳng thắn với chị. Nếu chị chẳng có bạn bè gì như chị nói, đó là lỗi của chính chị. Em rất muốn trở thành bạn của chị. Nhưng chị lúc nào cũng xù lông nhím lên cả.”

“Ồ, tôi biết… tôi biết chứ. Tôi ghét cô biết bao hồi cô mới đến trường! Vung vẩy khoe khoang chiếc nhẫn ngọc trai của mình…”

“Katherine, em không hề ‘khoe khoang’ nó!”

“Ồ, tôi cho rằng không. Đó chỉ là cái tính hậm hực bẩm sinh của tôi mà thôi. Nhưng chính chiếc nhẫn ấy như muốn tự khoe khoang mình… không phải tôi ghen vì cô có bạn trai đâu… tôi chẳng bao giờ muốn kết hôn cả… tôi thấy quá đủ khi chứng kiến cha mẹ mình rồi… nhưng tôi ghét chuyện cô là cấp trên của tôi khi cô trẻ hơn tôi… tôi đã rất mừng khi đám Pringle làm khó dễ cô. Cô dường như có tất cả mọi thứ mà tôi không có… quyến rũ… tình bạn… thanh xuân. Thanh xuân! Tôi chẳng bao giờ có thứ gì khác ngoại trừ tuổi thơ khốn khó. Cô chẳng hiểu gì đâu. Cô không biết… cô không thể hình dung được cảm giác khi chẳng có bất kỳ ai cần đến mình… bất kỳ ai!”

“Ồ, không ư?” Anne kêu lên.

Trong một vài câu thấm thía ngắn ngủi, cô phác thảo thời thơ ấu của mình trước khi đến Chái Nhà Xanh.

“Giá như trước đây tôi biết chuyện này,” Katherine nói. “Mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác. Với tôi, cô dường như là đứa con cưng của số phận. Tôi muốn nát tim vì ghen tị với cô. Cô có chức vị mà tôi ước ao… ồ, tôi biết cô có đủ tư cách hơn tôi, nhưng tôi vẫn ghen tị. Cô xinh đẹp, ít nhất thì cô khiến người ta tin rằng cô xinh đẹp. Ký ức sớm nhất của tôi thuở bé là có ai đó nhận xét, ‘Đúng là một con bé xấu gái!’ Cô bước vào phòng đầy hứng khởi… ôi, tôi còn nhớ cách cô bước vào trường buổi sáng đầu tiên. Nhưng tôi nghĩ lý do thực sự khiến tôi ghét cô là vì cô lúc nào cũng có vẻ đang ấp ủ một niềm hạnh phúc bí mật nào đó… cứ như mọi ngày trong đời đều là một cuộc phiêu lưu. Mặc cho lòng hậm hực, có nhiều lúc tôi đã phải thừa nhận với bản thân mình rằng cô có lẽ đến từ một ngôi sao xa xôi nào đó.”

“Thật tình, Katherine ạ, chị làm em nghẹt thở với mọi lời khen ngợi đó. Nhưng chị sẽ không ghét em nữa đâu, phải không chị? Bây giờ chúng mình có thể là bạn bè của nhau.”

“Tôi không biết nữa… tôi chưa bao giờ có bất kỳ kiểu bạn bè nào, huống gì là một người bạn cùng tuổi. Tôi chẳng thuộc về bất cứ đâu… chẳng bao giờ có ai để gắn bó. Tôi không cho rằng mình biết làm thế nào để trở thành một người bạn. Không, tôi không ghét cô nữa… tôi không biết mình cảm thấy thế nào về cô… ồ, tôi cho rằng sức quyến rũ nổi danh của cô bắt đầu có tác dụng với tôi. Tôi chỉ biết rằng tôi cảm thấy muốn kể cho cô nghe cuộc sống trước đây của mình thế nào. Tôi hẳn sẽ không bao giờ có thể kể cho cô nghe nếu cô không tâm sự với tôi về cuộc đời cô trước khi cô đến Chái Nhà Xanh. Tôi muốn cô hiểu điều gì đã tạo nên con người tôi như lúc này. Tôi không biết tại sao mình lại muốn cô hiểu… nhưng tôi cứ kể.”

“Kể cho em nghe đi, Katherine thân yêu. Em muốn hiểu chị.”

“Cô quả thực hiểu cảm giác chẳng có ai cần đến mình, phải thừa nhận thế… nhưng nó không giống cảm giác khi biết cha mẹ cô không cần đến cô đâu. Cha mẹ tôi là thế đấy. Họ căm ghét tôi kể từ thời điểm tôi được sinh ra… và trước đó nữa… và họ căm ghét nhau. Đúng, họ căm ghét nhau. Họ cãi cọ không ngừng… những cuộc cãi cọ nhỏ mọn, tầm thường, mè nheo. Thời thơ ấu của tôi là một cơn ác mộng. Họ qua đời khi tôi lên bảy và tôi đến sống với gia đình chú Henry. Cả bọn họ nữa cũng không cần tôi. Tất cả bọn họ đều coi thường tôi bởi tôi ‘sống nhờ vào lòng từ thiện’ của họ. Tôi nhớ tất cả những lời xúc phạm đã nhận… từng lời một. Tôi không thể nhớ nổi một từ yêu thương nào. Tôi phải mặc quần áo cũ vất đi của các anh chị họ. Tôi đặc biệt nhớ đến một cái mũ… nó khiến cho tôi trông giống như một cây nấm. Và bọn họ trêu cợt tôi mỗi khi tôi đội nó. Một ngày nọ tôi xé rách và ném nó vào ngọn lửa. Tôi đã phải đội chiếc mũ vải cũ mèm kinh tởm nhất đến nhà thờ suốt mùa đông còn lại. Tôi thậm chí chưa bao giờ có một con chó… ấy thế mà tôi muốn có một con chó biết chừng nào. Tôi có chút thông minh… tôi khao khát được học lên cử nhân biết bao… nhưng đương nhiên đó chẳng khác gì ước ao có được mặt trăng cả. Tuy nhiên, chú Henry đồng ý cho tôi học ở trường Queen nếu tôi trả lại tiền cho chú ấy khi có việc làm. Chú đã trả tiền cho tôi ở trọ trong một gian nhà trọ hạng ba thảm thương, phòng tôi nằm ngay phía trên nhà bếp, lạnh cóng vào mùa đông và nóng chảy mỡ vào mùa hè, và lúc nào cũng ngập ngụa mùi nấu nướng. Và những bộ quần áo tôi mặc đến trường Queen nữa chứ! Nhưng tôi đã lấy được bằng và được nhận vào làm hiệu phó ở trung học Summerside… chút may mắn duy nhất trong đời. Kể từ đó tôi dành dụm, thắt lưng buộc bụng để trả nợ cho chú Henry… không chỉ số tiền mà chú trả cho tôi học ở trường Queen, mà luôn cả chi phí nuôi dưỡng tôi suốt thời gian tôi ở nhà chú. Tôi quyết tâm không thiếu nợ xu nào. Đó là lý do tại sao tôi ở trọ chỗ bà Dennis và mặc quần áo tuềnh toàng. Và tôi vừa trả hết tiền cho chú xong. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình tự do. Nhưng trong thời gian đó tôi đã lớn lên một cách sai lầm. Tôi biết mình không giỏi giao tiếp… tôi biết mình chẳng tìm ra được lời thích đáng để mở miệng. Tôi biết đó là lỗi của chính tôi khi tôi luôn bị lờ đi và bị coi thường trong các buổi tụ họp xã giao. Tôi biết mình đã biến sự khó ưa thành một loại nghệ thuật. Tôi biết mình rất hay châm chích. Tôi biết mình bị học trò coi như bạo chúa. Tôi biết chúng ghét tôi. Cô nghĩ rằng tôi không đau đớn khi biết chuyện đó sao? Chúng luôn có vẻ sợ tôi chết khiếp… tôi ghét những người trông có vẻ sợ tôi. Ôi, Anne ơi… căm ghét đã trở thành một căn bệnh của tôi. Tôi thực sự muốn giống như mọi người khác… và giờ tôi chẳng thể nào làm được thế nữa. Chính điều đó đã khiến tôi cay cú đến vậy.”

“Ôi, nhưng chị có thể làm được mà!” Anne choàng tay ôm lấy Katherine. “Chị có thể xua đuổi nỗi căm hận ra khỏi tâm trí của chị… chữa cho mình khỏi căn bệnh đó. Bây giờ cuộc sống mới chỉ bắt đầu với chị thôi… bởi cuối cùng chị đã khá tự do và độc lập. Và chị chẳng ngờ nổi cái gì đang chờ đợi mình ở đằng sau khúc quanh đâu.”

“Tôi đã từng nghe cô nói câu này rồi… tôi đã cười cợt ‘khúc quanh’ của cô. Nhưng vấn đề là không có bất kỳ khúc quanh nào trên con đường của tôi. Tôi có thể nhìn thấy cuộc đời kéo dài thẳng ra trước mặt tôi đến tận chân trời… đơn điệu vô tận. Ôi, cuộc đời có bao giờ khiến cô khiếp sợ không hở Anne, với khoảng trống rỗng của nó… lúc nhúc những kẻ lạnh lùng đáng chán? Không, đương nhiên là không rồi. Cô không cần phải đi dạy cả đời. Và dường như cô thấy tất cả mọi người đều thú vị cả, thậm chí cả cái giống tròn quay đỏ ửng mà cô gọi là Rebecca Dew. Sự thật là, tôi ghét việc dạy học… nhưng tôi lại chẳng biết làm gì khác. Một giáo viên chỉ đơn giản là nô lệ của thời gian mà thôi. Ồ, tôi biết cách cô thích nó… tôi chẳng hiểu vì sao cô có thể thích nó. Anne, tôi muốn đi du lịch. Đó là điều tôi luôn luôn khát khao. Tôi nhớ bức tranh duy nhất treo trên tường căn phòng gác xép của tôi ở nhà chú Henry… một bức tranh in cũ kỹ phai màu bị loại bỏ khỏi những gian phòng khác đầy khinh miệt. Bức tranh vẽ cảnh những cây cọ mọc quanh một dòng suối giữa sa mạc, với một hàng lạc đà diễu hành ở đằng xa. Nó thực sự quyến rũ tôi. Tôi lúc nào cũng muốn đi và tận mắt chứng kiến… tôi muốn nhìn thấy Nam Cực, lăng Taj Mahal và những cây trụ của đền Karnak. Tôi muốn chứng kiến… chứ không phải chỉ tin rằng… trái đất hình tròn. Và tôi không bao giờ có thể làm điều đó với đồng lương giáo viên. Tôi cứ phải vĩnh viễn lải nhải những chuyện ba láp về những người vợ của vua Henry đệ bát và nguồn tài nguyên vô tận của Canada.

Anne phá lên cười. Bây giờ cô có thể an toàn mà cười, bởi sự chua chát đã biến mất trong giọng nói của Katherine. Giờ nó chỉ còn có vẻ buồn bã và bực bội thôi.

“Nhưng dù sao, chúng ta là bạn bè… và chúng ta sẽ có mười ngày vui vẻ ở đây để khởi đầu cho tình bạn của chúng ta. Em luôn luôn muốn là bạn của chị, Katherine ạ… Katherine với chữa K ở đầu! Em luôn cảm thấy rằng bên dưới lớp vỏ gai góc của chị là điều gì đó khiến chị là một người bạn có giá trị.”

“Vậy đó là điều mà cô thực sự nghĩ về tôi đấy ư? Tôi thường tự hỏi. Ôi dào, nếu có thể thì đến con báo cũng muốn đổi lớp da lốm đốm của nó ấy chứ. Có lẽ vậy. Tôi hầu như có thể tin tưởng vào mọi điều ở Chái Nhà Xanh của cô. Nó là nơi ở đầu tiên mà tôi cảm thấy giống như một tổ ấm. Tôi hẳn là muốn mình trở nên giống như những người khác… nếu như không phải là quá muộn. Tôi thậm chí sẽ luyện tập một nụ cười sáng chói cho anh chàng Gilbert của cô khi anh ta đến chơi vào tối mai. Tất nhiên, tôi đã quên cách thức nói chuyện với các chàng trai trẻ… ấy là nếu tôi đã từng biết. Anh ta sẽ cho rằng tôi là một con kỳ đà cản mũi già khú đế. Tối nay khi đi ngủ, tôi sẽ tự hỏi liệu mình có cảm thấy tức giận với bản thân vì đã kéo mặt nạ xuống để cô nhìn thẳng vào linh hồn run rẩy yếu ớt của tôi thế này không.”

“Không, không đâu. Chị sẽ nghĩ rằng, ‘Mình mừng vì cô nàng nhận ra mình cũng là con người.’ Chúng mình sẽ rúc vào giữa những tấm chăn lông ấm áp, có lẽ có thêm hai bình nước nóng nữa, vì cả Marilla và bà Lynde mỗi người sẽ đặt vào chăn một bình cho chúng ta, vì sợ người kia lỡ quên mất. Và chị sẽ cảm thấy buồn ngủ cực kỳ sau chuyến đi bộ dưới ánh trăng mờ sương này… và điều đầu tiên mà chị ý thức được là buổi sáng đã đến, và chị sẽ cảm thấy như mình là người đầu tiên khám phá ra rằng bầu trời có màu xanh thẳm. Và chị sẽ biết được truyền thuyết về món bánh pudding mận bởi chị sẽ giúp em làm một chiếc cho thứ Ba tới… một chiếc bánh khổng lồ đầy nhóc mận.”

Anne hết sức ngạc nhiên trước vẻ tươi tắn của Katherine khi họ vào nhà. Làn da của cô gái rạng rỡ sau chuyến đi bộ dài ngoài trời lạnh giá, và sắc hồng ấy khiến cô hoàn toàn thay đổi.

“Ôi chao, Katherine sẽ rất bắt mắt nếu chị ấy mặc đúng kiểu mũ và váy thích hợp,” Anne trầm tư, cố gắng hình dung ra Katherine với chiếc mũ nhung đỏ sẫm, chiếc mũ cô từng nhìn thấy trong một cửa hàng ở Summerside, nằm trên mái tóc đen và rọi sắc đỏ tôn lên đôi mắt màu hổ phách của cô. “Mình phải xem xem có thể làm gì để biến hình ảnh này thành hiện thực mới được.”