Chương 22: Chương 16

Chương 16

...nhưng như mẹ đã viết, Francesca đang quản lý Kilmartin với tài năng đáng khâm phục. Không phải là con định rũ bỏ trách nhiệm, và con đảm bảo với mẹ, nếu như con không có một người thay thế giỏi giang đến vậy, con đã về ngay lập tức.

—của Bá tước Kilmartin gửi mẹ anh, Helen Stirling, hai năm sáu tháng sau khi anh đi Ấn Độ, vừa viết vừa lẩm bẩm, “Cô ấy chẳng bao giờ trả lời con.”

Francesca không thích nghĩ mình là một người nhát gan, nhưng với những lựa chọn của cô, một là thế hoặc là làm một đứa ngốc, cô chọn làm người nhát gan. Một cách rất sung sướng.

Bởi vì chỉ có một đứa ngốc mới ở lại London—trong cùng một nhà, thậm chí là vậy— với Michael Stirling, sau khi đã trải qua nụ hôn của anh.

Nó đã...

Không, Francesca sẽ không nghĩ về nó. Khi cô nghĩ về nó, cô rốt cục sẽ không thể tránh khỏi cảm giác tội lỗi và xấu hổ, bởi vì cô lẽ ra không nên cảm thấy thế này với Michael.

Không phải là Michael.

Cô đã định sẽ không cảm thấy khao khát với bất cứ ai. Thực vậy, nhiều nhất cô trông đợi từ một anh chồng là một cảm giác dễ chịu, nhẹ nhàng—một nụ hôn có cảm giác hay hay ở trên môi nhưng không làm cô xao động ở bất cứ nơi nào khác.

Thế cũng đủ rồi.

Nhưng giờ... Nhưng chuyện này...

Michael đã hôn cô. Anh đã hôn cô, và tệ hơn, cô đã hôn lại anh, và từ đó đến giờ tất cả những gì cô có thể làm là tưởng tượng đôi môi anh đặt trên môi cô, rồi tưởng tượng chúng ở khắp các chỗ khác. Và đến đêm, khi cô một mình trên cái giường khổng lồ của mình, những giấc mơ của cô trở nên sống động, và bàn tay cô sẽ chạy xuống trên người, chỉ để dừng lại trước khi nó đến cái đích cuối cùng.

Cô sẽ không— Không, cô không thể mơ tưởng về Michael. Điều đó thật sai. Cô sẽ cảm thấy tồi tệ khi cảm thấy sự khao khát kiểu này với bất cứ ai, nhưng Michael...

Anh là em họ John. Bạn thân nhất của anh ấy. Bạn thân nhất của cô nữa. Và cô không nên hôn anh.

Nhưng, cô nghĩ và thở dài, nó thật tuyệt diệu.

Và đó là lý do tại sao cô phải chọn làm kẻ nhát gan thay vì làm đứa ngốc và chạy về Scotland. Bởi vì cô không tin tưởng khả năng mình có thể cưỡng lại anh một lần nữa.

Cô đã ở Kilmartin được gần một tuần, cố chìm mình vào cuộc sống bình thường hàng ngày với vị trí chủ nhà. Luôn có rất nhiều việc để làm—những tài khoản cần kiểm tra, những người dân cần được thăm hỏi—nhưng cô không còn cảm thấy sự thỏa mãn như cô thường thấy trong những công việc đó. Sự thường xuyên của công việc lẽ ra phải làm cô dịu lại, nhưng thay vào đó, nó lại làm cô bồn chồn, và cô không thể bắt mình chú tâm, để cho đầu óc tập trung vào đúng một việc nào đó.

Cô lóng ngóng và phân tán tư tưởng, và cả nửa thời gian cô cảm thấy như thể cô chẳng biết phải làm gì với bản thân mình—theo nghĩa đen và thực tế nhất. Cô dường như không thể ngồi yên, và cô chọn cách rời khỏi Kilmartin hàng giờ liền, mang đôi ủng thoải mái nhất của cô và đi bộ qua khắp vùng thôn quê cho đến khi cô mệt lử.

Chẳng phải là điều đó sẽ làm cho cô ngủ ngon hơn hàng đêm, nhưng, ít ra cô cũng đang cố.

Và ngay bây giờ cô đang cố gắng hết sức, vừa lê được thân mình lên ngọn đồi cao nhất tại Kilmartin. Thở dốc vì mệt, cô liếc nhìn lên bầu trời đang tối dần, cố ước lượng thời gian và khả năng có thể có mưa.

Muộn, và có thể.

Cô nhăn mặt. Cô nên quay về nhà.

Cô cũng không phải đi xa lắm, chỉ xuống đồi và vượt qua đồng cỏ. Nhưng khi cô đến được mái cổng chính oai nghiêm của Kilmartin, trời bắt đầu mưa lâm thâm, và mặt cô lấm tấm những giọt mưa nhỏ xíu. Cô cởi chiếc mũ và rũ, may sao cô đã nhớ đội nó vào trước khi đi—cô không phải lúc nào cũng cẩn thận vậy—và vừa mới chuẩn bước lên cầu thang về phía phòng ngủ, nơi cô định sẽ tự cho phép mình thưởng thức chocolate và bánh bích quy, thì Davies, người quản gia, xuất hiện trước mặt cô.

“Thưa bà?” ông ta nói, rõ ràng muốn cô chú ý.

“Vâng?”

“Bà có khách.”

“Khách?” Francesca cảm thấy trán mình đang nhăn lại, nghĩ ngợi. Hầu hết những người hay đến thăm ở Kilmartin đều đã về Edinburgh hoặc London cho mùa lễ hội.

“Không hẳn là khách, thưa bà.”

Michael. Chắc là thế. Và cô không thể nói là cô ngạc nhiên, không hẳn vậy. Cô đã nghĩ có thể anh sẽ theo cô, mặc dù cô đoán hoặc anh sẽ làm vậy ngay lập tức hoặc sẽ chẳng làm gì cả. Bây giờ, một tuần sau, cô tưởng cô đã có thể yên ổn không bị sự quan tâm của anh.

Yên ổn trước chính những phản ứng của cô.

“Anh ấy đâu?” cô hỏi Davies.

“Ngài bá tước?”

Cô gật đầu.

“Đang đợi trong phòng khách hoa hồng.”

“Anh ấy đã đến lâu chưa?”

“Không lâu, thưa bà.”

Francesca gật đầu cho ông ta lui, rồi buộc đôi chân đưa mình dọc theo hành lang tới phòng khách. Cô không nên sợ việc này đến mức kinh khủng như vậy. Chỉ là Michael thôi mà, vì Chúa.

Ngoại trừ việc cô có một cảm giác chìm sâu bên trong, rằng anh sẽ không bao giờ chỉ là Michael nữa.

Nhưng mà, cũng chẳng phải là cô chưa từng lặp đi lặp lại cả triệu lần trong đầu những gì cô sẽ nói. Nhưng tất cả những câu nói vô vị và lời biện hộ của cô giờ đây nghe như có vẻ chẳng đủ, vì cô đang phải đối mặt với khả năng phải nói ra thành lời.

Thật hay được gặp anh, Michael, cô có thể nói, giả vờ như chưa có chuyện gì xảy ra.

Hoặc là— Anh phải nhận ra là sẽ chẳng có gì thay đổi hết—mặc dù, đương nhiên, tất cả đã thay đổi.

Hoặc cô có thể pha trò và mở đầu với cái gì đó kiểu như— Anh có thể tin nổi sự ngốc nghếch của chuyện này không?

Mặc dù cô cũng hơi nghi rằng chẳng ai trong số họ cảm thấy chuyện này ngốc nghếch.

Và thế là cô đành chấp nhận rằng cô sẽ vừa nói vừa bịa, và cô bước qua ngưỡng cửa căn phòng khách hoa hồng nổi tiếng và đáng yêu của Kilmartin.

Anh đang đứng cạnh cửa sổ—tìm kiếm cô, có thể? —và không quay lại khi cô vào. Anh trông đầy vẻ mệt mỏi sau chuyến đi, với quần áo hơi nhàu và tóc bù xù. Anh không thể cưỡi ngựa suốt lên tận Scotland được—chỉ có một tên ngốc hoặc một anh chàng phải truy đuổi ai đó lên tận Gretna (thị trấn ở biên giới phía nam Scotland) mới làm vậy. Nhưng cô đã đi cùng Michael đủ thường xuyên, để biết rằng anh hẳn đã lên ngồi cùng người đánh xe ở phía trước trong phần lớn chuyến đi. Anh luôn ghét khoang xe kín mít trong những chuyến đi dài, và đã hơn một lần nói rằng thà ngồi trong cơn mưa lâm thâm còn hơn là bị nhồi vào trong khoang cùng với những hành khách khác.

Cô không gọi tên anh. Cô có thể làm thế, cô nghĩ. Cô cũng chẳng câu được thêm mấy thời gian; anh sẽ quay người lại sớm thôi. Nhưng bây giờ cô chỉ muốn có thời gian làm quen với sự có mặt của anh, để đảm bảo rằng hơi thở của cô vẫn được nhịp nhàng, rằng cô sẽ không làm điều gì đó thực sự ngu ngốc, như là òa lên khóc, hoặc là, cũng rất có thể, phá lên cười một cách ngây ngô, lo lắng.

“Francesca,” anh nói, thậm chí không cần quay lại.

Vậy là anh đã cảm nhận được sự có mặt của cô. Đôi mắt cô mở lớn, mặc dù cô không nên ngạc nhiên. Từ khi rời quân đội anh đã có một khả năng gần giống với loài mèo, có thể cảm nhận được xung quanh. Có thể đó là thứ đã giúp anh sống sót trong cuộc chiến tranh. Chẳng có ai, rõ ràng là thế, có thể tấn công anh từ phía sau.

“Vâng,” cô nói. Và rồi, vì cô nghĩ mình nên nói tiếp, cô thêm, “Tôi tin là anh đã có một chuyến đi dễ chịu.”

Anh xoay người. “Rất dễ chịu.”

Cô nuốt vào, cố không chú ý chuyện anh đẹp trai đến cỡ nào. Anh đã gần như đánh cắp mất hơi thở của cô khi ở London, nhưng ở đây tại Scotland, anh dường như đã thay đổi. Hoang dã hơn, mãnh liệt hơn.

Nguy hiểm hơn nhiều đối với tâm hồn cô.

“Có gì không ổn ở London sao?” cô hỏi, hy vọng rằng thực sự có một lý do thực tế nào đó cho chuyến viếng thăm này. Bởi vì nếu không, thì anh hẳn đã đến chỉ vì cô, và cái đó làm cô sợ chết khiếp.

“Chẳng có gì không ổn,” anh nói, “mặc dù đúng là tôi có tin mới.”

Cô nghiêng đầu, chờ anh nói.

“Anh trai cô đã đính hôn.”

“Colin?” cô hỏi trong sự ngạc nhiên. Anh trai cô đã rất toàn tâm toàn ý với cuộc sống độc thân, đến nỗi cô thậm chí sẽ không choáng nếu anh bảo rằng anh chàng may mắn thực ra là em trai cô, Gregory, mặc dù nó kém Colin đến gần mười tuổi.

Michael gật đầu. “Với Penelope Featherington.”

“Với Penel—ôi, trời ơi, đó đúng là một sự ngạc nhiên. Nhưng rất tuyệt, tôi phải nói. Tôi nghĩ chị ấy sẽ hợp với anh ấy vô cùng.”

Michael bước một bước về phía cô, hai tay anh vẫn chắp sau lưng. “Tôi nghĩ cô có thể muốn biết.”

Và anh không thể viết một bức thư? “Cảm ơn anh,” cô nói. “Tôi trân trọng sự chu đáo của anh. Đã rất lâu mới có một đám cưới trong gia đình tôi. Kể từ sau—“

Đám cưới của tôi, họ đều nhận ra cô sắp nói vậy.

Sự im lặng lảng vảng trong phòng như một vị khách không mời, và cuối cùng cô phá vỡ nó, “Ừm, đã lâu rồi. Mẹ tôi hẳn phải rất vui sướng.”

“Đúng thế,” Michael khẳng định. “Hay đúng hơn là anh cô đã nói với tôi vậy. Tôi đã không có cơ hội được nói chuyện với bà.”

Francesca hắng giọng, rồi cố tỏ ra thoải mái trong tình cảnh lạ lùng hiện tài bằng cách phẩy tay khẽ và hỏi, “Anh sẽ ở lại lâu chứ?”

“Tôi vẫn chưa quyết,” anh nói, bước thêm một bước về phía cô. “Cái đó còn tùy thuộc.”

Cô nuốt vào. “Vào cái gì?”

Anh thu hẹp khoảng cách giữa họ còn một nửa. “Vào cô,” anh nói khẽ.

Cô biết ý anh là gì, hoặc ít ra cô nghĩ vậy, nhưng điều cuối cùng cô muốn làm lúc đó là thừa nhận chuyện đã xảy ra ở London, nên cô lui lại một bước—xa nhất cô có thể mà không phải tỏ ra vẻ muốn chuồn khỏi phòng—và giả vờ hiểu nhầm. “Đừng có ngốc nghếch,” cô nói. “Kilmartin là của anh. Anh có thể đến và đi khi anh thích. Tôi chẳng thể điều khiển được hoạt động của anh.”

Đôi môi anh cong lên thành một nụ cười chế diễu. “Đó là điều cô nghĩ sao?” anh thì thầm.

Và cô nhận ra anh lại một lần nữa rút ngắn khoảng cách giữa họ còn một nửa.

“Tôi sẽ cho dọn sẵn một phòng cho anh,” cô vội nói. “Anh thích phòng nào?”

“Chẳng quan trọng.”

“Phòng ngủ của bá tước vậy nhé,” cô nói, thừa biết mình đang lắp bắp. “Sẽ không sao cả. Tôi sẽ dọn xuống cuối hành lang. Hoặc, ừm, sang khu khác,” cô thêm, lẩm bẩm.

Anh bước thêm một bước nữa về phía cô. “Cái đó không cần thiết.”

Đôi mắt cô liếc nhanh vào mắt anh. Anh đang có ý gì thế? Chắc chắn anh không nghĩ một nụ hôn tại London sẽ cho phép anh mở cánh cửa nối hai phòng ngủ của bá tước và nữ bá tước chứ?

“Đóng cửa lại,” anh nói, hất đầu về cửa ra vào đang mở sau lưng cô.

Cô liếc ra sau, mặc dù cô biết chắc mình sẽ thấy gì ở đó. “Tôi không chắc—“

“Tôi chắc,” anh nói. Và rồi, bằng một giọng như thép bọc nhung, anh nói, “Đóng nó lại.”

Cô đóng. Cô khá chắc chắn đó là một ý tồi, nhưng cô vẫn làm. Bất kể cái gì anh đang định nói với cô, cô cũng không thực sự muốn bị nghe thấy bởi cả đoàn quân người hầu.

Nhưng ngay khi những ngón tay cô rời khỏi nắm đấm cửa, cô vòng qua anh bước vào trong phòng, tạo ra một khoảng cách đủ dễ chịu—với cả một bộ sa lông—giữa họ.

Anh trông có vẻ thú vị với việc làm của cô, nhưng anh không giễu cô. Thay vào đó, anh chỉ nói, “Tôi đã nghĩ rất nhiều về những chuyện này từ khi cô rời London.”

Và cô cũng vậy, nhưng có lẽ nói ra cũng chẳng ích gì.

“Tôi đã không định hôn cô,” anh nói.

“Không!” cô nói, quá to. “Ý tôi là, không, tất nhiên rồi.”

“Nhưng giờ tôi đã... Giời chúng ta đã...”

Cô nhăn mặt vì anh dùng số nhiều. Anh sẽ không cho phép cô giả vờ rằng mình không phải là một người tham gia tự nguyện.

“Giờ chuyện đó đã xảy ra,” anh nói, “tôi chắc cô cũng hiểu mọi thứ đã thay đổi.”

Lúc đó cô ngước nhìn anh; cô đã cố tình nhìn rất chăm chú vào những hoa văn hình hoa màu hồng và kem trên chiếc sofa phủ gấm. “Tất nhiên,” cô nói, cố lờ đi cái cổ họng đang nghẹn lại của mình.

Những ngón tay anh nắm lấy thành một chiếc ghế gụ kiểu cổ. Francesca liếc xuống hai bàn tay anh; nắm tay anh đã trở nên trắng bệch.

Anh đang căng thẳng, cô nhận ra với sự ngạc nhiên. Cô đã không lường được cái đó. Cô không biết mình đã thấy anh căng thẳng bao giờ chưa. Anh luôn luôn là một hình mẫu của sự duyên dáng tao nhã, sức hấp dẫn của anh mượt mà và dễ dãi, sự hài hước nghịch ngợm của anh luôn ở trên môi.

Nhưng giờ trông anh thật khác. Trống trơn. Căng thẳng. Và điều đó làm cô cảm thấy... không khá hơn, nếu nói một cách chính xác, nhưng có lẽ cũng không còn như thể cô là đứa ngốc duy nhất trong phòng.

“Tôi đã nghĩ rất nhiều về chuyện này,” anh nói.

Anh đang lặp lại lời mình nói. Cái này thật lạ.

“Và tôi đã đưa ra một kết luận làm cho chính tôi cũng ngạc nhiên,” anh tiếp, “mặc dù khi mà bây giờ tôi đã nghĩ ra được như vậy, tôi khá tin tưởng rằng đó là cách tốt nhất.”

Với mỗi lời nói của anh, cô cảm thấy tự chủ hơn, đỡ cảm thấy bồn chồn hơn. Chẳng phải là cô muốn anh cảm thấy tệ hại—ừm, có thể là có; đó chỉ đơn giản là công bằng sau cái cách cô đã phải trải qua tuần vừa rồi. Nhưng có cái gì đó thật dễ chịu khi biết rằng sự gượng gạo không chỉ là từ một phía, rằng anh cũng đã bối rối và choáng váng như cô vậy.

Hoặc nếu không, thì ít ra anh cũng chẳng phải là không bị ảnh hưởng gì.

Anh hắng giọng, rồi hơi động đậy cằm, nuốt khan. “Tôi tin,” anh nói, đôi mắt anh bỗng nhìn thẳng vào mắt cô với một sự điềm tĩnh đáng ngạc nhiên, “rằng chúng ta nên lấy nhau.”

Cái gì?

Đôi môi cô há ra.

Cái gì?

Và rồi, cuối cùng, cô cũng nói được. “Cái gì?”

Không phải là Anh nói lại xem. Thậm chí không phải Xin lỗi? Chỉ là Cái gì?

“Nếu cô nghe tôi giải thích,” anh nói, “cô sẽ thấy việc này là hợp lý.”

“Anh điên à?”

Anh hơi sựng lại. “Không hề.”

“Tôi không thể lấy anh, Michael.”

“Tại sao không?”

Tại sao không? Bởi vì... bởi vì... “Bởi vì tôi không thể!” cô cuối cùng cũng thốt lên. “Vì chúa, anh hơn bất cứ ai phải hiểu rõ sự điên rồ trong cái ý tưởng đó.”

“Tôi sẽ thừa nhận rằng khi mới nghĩ đến, việc đó thật có vẻ không bình thường, nhưng nếu cô chịu nghe tôi nói, cô sẽ thấy sự hợp lý trong đó.”

Cô há miệng nhìn anh. “Sao nó có thể hợp lý được? Tôi chẳng thể nghĩ ra cái gì kém hợp lý hơn!”

“Cô sẽ không phải dọn đi,” anh nói, nhẩm đếm bớt một lý do, bấm ngón tay, “và cô sẽ giữ nguyên danh hiệu và địa vị.”

Tiện lợi đấy, cả hai cái đó, nhưng chẳng thể đủ là lý do để lấy Michael, người mà... ừm... Michael.

“Cô sẽ có thể bước vào một cuộc hôn nhân và biết rằng cô sẽ được đối xử với sự quan tâm và tôn trọng,” anh thêm. “Sẽ mất hàng tháng để có thể kết luận như vậy với một người đàn ông khác, và ngay cả lúc đó, liệu cô có thể chắc chắn được không? Những ấn tượng ban đầu có thể đánh lừa người ta, dù sao đi nữa.”

Cô nhìn kỹ gương mặt anh, cố xem xem có cái gì, bất cứ cái gì ẩn sau những lời nói kia không. Phải có lý do nào đó cho chuyện này, bởi vì cô không thể nào nắm bắt được cái ý nghĩ rằng anh đang cầu hôn cô. Việc này thật là điên. Thật là...

Chúa ơi, cô không chắc nó ra làm sao nữa. Liệu có từ nào có thể dùng để tả một chuyện làm cho mặt đất dưới chân người ta như biến mất?

“Tôi sẽ cho cô những đứa con,” anh nói khẽ. “Hoặc ít nhất, tôi sẽ cố.”

Cô đỏ mặt. Cô cảm thấy điều đó ngay lập tức, hai má cô đang chuyển sang màu hồng, nóng bỏng dữ dội. Cô không muốn tưởng tượng mình ở trên giường với anh. Cô đã bỏ cả tuần vừa rồi cố gắng không làm việc đó.

“Anh sẽ được gì?” cô thì thầm.

Anh có vẻ thoáng ngập ngừng trước câu hỏi của cô, nhưng rồi trở lại như thường và nói, “Tôi sẽ có một người vợ đã quản lý đất đai của tôi bao năm nay. Tôi chắc chắn không quá kiêu ngạo đến nỗi không muốn lợi dụng kiến thức tuyệt vời của cô.”

Cô gật đầu. Chỉ một lần, nhưng cũng đủ để ra hiệu anh nói tiếp.

“Tôi đã biết cô và tin tưởng cô,” anh nói. “Và tôi hoàn toàn chắc chắn rằng cô sẽ không bao giờ phản bội.”

“Tôi không thể nghĩ về điều này bây giờ,” cô nói, đưa tay lên mặt. Đầu cô đang quay cuồng với tất cả những chuyện này, và cô có một cảm giác kinh khủng rằng nó sẽ không bao giờ hồi phục được trọn vẹn.

“Việc này là hợp lý,” Michael nói. “Cô chỉ cần suy xét—“

“Không,” cô nói, cố kiếm ra một giọng có vẻ quyết tâm. “Sẽ không thể được. Anh biết vậy.” Cô quay đi, không muốn nhìn anh. “Tôi không thể tin là anh có thể thậm chí tính đến chuyện đó.”

“Tôi cũng không thể tin,” anh thừa nhận, “khi ý tưởng đó hiện lên trong đầu. Nhưng khi nó đã đến, tôi không thể rũ nó đi được, và tôi sớm nhận ra nó hoàn toàn hợp lý.”

Cô ấn ngón tay vào hai thái dương. Vì Chúa, sao anh cứ lải nhải về sự hợp lý mãi vậy? Nếu anh nói từ đó ra thêm một lần nữa, cô nghĩ cô sẽ hét lên mất.

Và sao anh có thể bình tĩnh đến thế? Cô không biết cô nghĩ anh nên cư xử ra sao; cô chắc chắn chưa bao giờ tưởng tượng đến khoảnh khắc này. Nhưng có cái gì đó trong bài diễn thuyết cầu hôn lạnh lùng của anh như làm cô ngứa ngáy. Anh quá lạnh lùng, quá bình tĩnh. Hơi căng thẳng, có thể, nhưng các cảm xúc của anh hoàn toàn bình thường và có vẻ không tập trung.

Trong khi cô thì đang cảm thấy như thế giới đang lăn ra khỏi trục của nó.

Thật không công bằng.

Và ít nhất trong thời khắc đó, cô ghét anh vì đã làm cô cảm thấy như vậy.

“Tôi sẽ lên lầu,” cô nói đột ngột. “Tôi sẽ phải nói chuyện với anh về việc này sáng mai.”

Cô suýt nữa thoát được. Cô đã đi được nửa đường tới cánh cửa khi cô cảm thấy bàn tay anh nắm lấy cánh tay cô, anh cầm thật nhẹ nhàng nhưng vẫn giữ cô lại với sức mạnh không thể cưỡng nổi.

“Đợi đã,” anh nói, và cô không thể cử động.

“Anh muốn gì?” cô thì thầm. Cô không nhìn anh, nhưng cô có thể nhìn thấy gương mặt anh trong đầu mình, cái cách mái tóc đen tuyền của anh rũ xuống trán, đôi mắt anh lim dim, với những hàng lông mi đủ dài để làm một thiên thần khóc thút thít.

Và đôi môi của anh. Hơn tất cả, cô có thể thấy đôi môi anh, hình dạng hoàn hảo, như được nặn ra thật khéo, thường xuyên cong lên để tạo thành vẻ mặt quỷ quái của anh, như thể anh biết mọi chuyện, hiểu thế giới theo cách mà những tâm hồn trần tục không bao giờ có thể.

Bàn tay anh chạy dọc lên cánh tay cô cho đến khi nó tới bờ vai, và rồi một ngón tay anh lướt thành một đường nhẹ như tơ bên cổ cô.

Giọng anh, khi nó phát ra, thật trầm và khàn, và cô cảm nhận được nó ngay trong sâu thẳm cơ thể mình.

“Em có muốn một nụ hôn nữa không?”