Chương 15: Con Quái Vật Màu Đen
Chúng ta có nên chạy trốn không, hay đứng lại và chiến đấu?” Mabon đã quay đầu ngựa lại.
“Tớ có một món nợ phải tính với những tên côn đồ đó,” Peredur vừa nói vừa vung thanh kiếm mới trên tay.
Tai Timoken không thể nghe thấy những lời họ nói. Cậu biết mình phải làm gì. Lần này, cậu không dùng đến áo choàng của mình; không còn thời gian nữa. Bằng ngôn ngữ của vương quốc bí ẩn, cậu nói lên vang lên trời.
Trả lời tiếng gọi của cậu là môt tràng sấm sét to hơn cả tiếng gầm của bất cứ con quái vật nào. Trong giây lát, bầu trời tối đen như mực, và những tia chớp xoẹt ngang qua khung cảnh tăm tối, ngắm thắng vào chiếc xe ngựa đang lao đến.
Chiếc xe ngựa vỡ nát trong làn khói, lửa bốc cao ngùn ngụt, những mảnh vụn của nó văng ra tứ tung trên bầu trời. Tiếng thét vang lên từ rất xa, mùi lửa cháy khét xộc thẳng vào mũi của nhóm bạn.
“Chúng chết rồi chứ?” Edern nhìn Timoken trong nỗi kinh hoàng.
“Chúng sẽ không theo chúng ta nữa đâu,” Timoken đáp. Cậu không biết những tên bắt cóc đã chết hay chưa. Nhưng cậu đã làm được điều mình nên làm. Như vậy là đủ rồi.
Tất cả mọi người cùng reo lên vui mừng; ngay cả Beri cũng hét lên vì sung sướng. Nhưng bây giờ hẳn còn quá sớm để ăn mừng. Từ trong ngọn lửa, con quái vật màu đen không hề hấn gì, nó đang lao thẳng vào họ. Gabar run rẩy, kêu lên vì khiếp sợ.
“Yên nào, Gabar. Ta có thể chặn được con vật này,” Timoken nhẹ nhàng nói. Cậu đánh một cú sấm sét nữa xuống ngay giữa đầu con quái vật. Nhưng nó vẫn tiếp tục lao đến, không bị thương một chút nào. Những đòn sấm chớp cứ thế giáng xuống đầu con quái vật, hết lần này đến lần khác, theo tiếng gọi khẩn khoản của Timoken. Cậu tháo khăn choàng, xoay tròn nó trong không trung, vẫn tiếp tục gọi sấm sét. Những đợt sấm chớp vẫn tiếp tục đánh xuống con quái vật, từ tất cả mọi phía. Nhưng nó vẫn không chùn bước, lao đến như một mũi tên
Những đứa trẻ khác quay đầu ngựa, sẵn sàng thúc ngựa bỏ chạy.
“Con quái vật đó là ma quỷ,” Edern hét lên. “Nó là quỷ dữ. Cậu không thể đánh bại nó đâu, Timoken. Chạy thôi. NGAY BY GIỜ!”
Thất bại thật là quá chua chát với Timoken. Nó khiến cậu trở nên sợ hãi. Nhưng khi cậu ra lệnh cho Gabar quay đầu lại, cậu nghe con quái vật kêu lên bất ngờ. Những bước chạy như sấm vẫn vọng đến, và một âm thanh khác vang lên, đó là tiếng gầm của một con mèo lớn. Có ba tiếng gầm.
Timoken quay đầu lại nhìn. Con ngựa đã dừng lại. Nó đang phải đối mặt với ba con báo lớn, bộ lông sáng màu của chúng tỏa sáng trong bóng tối. Như thể chúng đã biết nhau từ trước, ba con báo và một ngựa-không-phải-là-con-ngựa. Mọi người có thể cảm nhận được sức mạnh và phép thuật bên dưới bộ lông đen tồi tàn của con ngựa và bộ lông lốm đốm của ba con báo.
“Mèo Mặt Trời! Cằm Lửa! Ngôi Sao! Các ngươi đã tìm thấy ta,” Timoken reo lên.
Con quái vật giận dữ giậm xuống đất. Nó cúi đầu xuống và tấn công vào Cằm Lửa đang đứng ở giữa. Khi Cằm Lửa lùi lại, Mèo Mặt Trời vồ lấy cổ họng của con ngựa, Ngôi Sao nhảy lên lưng nó. Con quái vật điên cuồng lắc mạnh đầu; ngọn lửa từ mũi nó đốt cháy móng của Mèo Mặt Trời, nhưng nó vẫn bám chắc, móng của nó bấu sâu vào đầu của con quái vật.
Timoken chợt nhận ra rằng, những đứa trẻ còn lại đã tập trung sau lưng cậu.
“Những con vật đó là gì vậy?” Beri thì thầm.
“Những con báo,” Timoken nói.
“Chúng đến từ đâu thế?” Edern hỏi.
“Từ Châu Phi. Chúng lúc nào cũng đi theo tôi.”
Cả bọn nín th bốn con vật đánh nhau trong sự kinh ngạc, Cằm Lửa không sợ những cú đá điên tiết của con quái vật. Một cú đá của con ngựa cũng có thể làm nó văng ra xa. Nhưng bằng sự nhanh nhẹn phi thường, con báo tránh được tất cả những cú đá, nó nhào vô ngoạm lấy chân sau của con ngựa nhanh như chớp.
Con ngựa lùi lại, nó lắc mạnh cái đầu khổng lồ, nhưng con báo vẫn bám chặt. Bất ngờ, Mèo Mặt Trời lao tới, cắn vào cái cổ đen của con ngựa. Con vật vùng vẫy; nó rống lên một tiếng đau đớn, rồi quỵ xuống. Tiếng kêu của nó thật thảm thiết, Timoken phải tự nhủ với bản thân rằng, nó không phải là một con ngựa, nó là một con quái vật được tạo ra từ ma thuật.
Những con báo vẫn giữ chặt vuốt của mình, cho đến khi con quái vật ngã xuống, cổ nó cong vẹo lại, mũi nó nằm sát trên mặt đất. Ngôi Sao và Mèo Mặt Trời buông con ngựa ra, ngẩng cao đầu, gầm lên kiêu hãnh, Cằm Lửa cũng nhả chân của con vật ra và cùng tham gia với anh em. Chúng gần như đã giết chết con quái vật, nhưng chúng không ăn con mồi. Nó không phải một con thú bình thường, thịt của nó có độc.
“Cảm ơn các ngươi lần nữa, những người bạn của ta,” Timoken nói.
Những con báo nói: “Con vật đó không thể làm hại được cậu nữa.”
“Giờ ta lại phải tiếp tục lên đường,” Timoken nói.
“Chúng tôi sẽ luôn đi theo cậu,” Cằm Lửa nói.
“Luôn luôn là như vậy,” Ngôi Sao nói.
Ba con báo biến đi trong nháy mắt, nhanh đến nỗi không ai thấy được chúng đi về hướng nào.
Timoken nhận thấy mọi người vẫn đang nhìn chằm chằm vào cậu. Chúng trông thật hoang mang, chưa hiểu...
“Cậu có thể nói chuyện với cả báo à?” Beri nói.
“Chúng đều là những người bạn của tớ,” Timoken đáp. “Tớ xin lỗi, nếu tiếng gầm gừ của tớ làm các cậu sợ.”
Beri cười: “Những tiếng gầm của cậu thật dịu dàng.”
Lấy lại sự bình tĩnh, Mabon nói: “Trận đánh nhau đó làm tớ thấy thèm ăn.”
“Thức ăn à?” Timoken hỏi. “Vậy hãy tìm một noi an toàn để ngồi ăn nào.” Cậu không cần phải nhắc Gabar đi tiếp, nó muốn nhanh chóng tránh xa khỏi cái xác của con quái vật. Mặt trời lại dần ló dạng. Gereint cất tiếng hát, mọi người lại vui vẻ lên đường.
Họ tìm thấy một khu vườn đầy táo chín đỏ mọng. Peredur bắt được một con thỏ và họ ngồi ăn ngon lành dướt tán cây. Tối hôm đó, họ ngủ trong một túp lều trên sa mạc. Timoken treo áo choàng trước cửa, việc này đã trở thành một thói quen của cậu. Cậu càng thấy yên tâm hơn khi biết những con báo đang ở gần.
Những đứa trẻ đều quyết định phải bắt đầu làm việc để kiếm sống. Những quả táo trong khu vườn đã chín mọng, vườn nho cũng đầy những quả chín. Những người nông dân vui mừng nhận sự giúp đỡ của chúng và họ cũng không hỏi gì nhiều về bọn trẻ. Bọn trẻ chỉ cần một khúc bánh mì và phô mai vào bữa trưa thay cho tiền công, chúng còn được thêm một bữa ăn tương tự vào buổi tối.
Timoken nghĩ rằng cậu nên đội một cái khăn để che đi chiếc vương miện trên đầu mình. Khi Beri hỏi, tại sao cậu không bao giờ bỏ vương miện ra, Timoken ngại ngùng đáp rằng, cậu đã cố gỡ nó ra cả ngàn lần. Nhung điều đó là không thể.
Những đứa trẻ thử giúp cậu tháo vương miện ra. Từng đứa một, thử kéo, vặn chiếc vương miện chôn chặt trong tóc của Timoken. Nhưng cuối cùng thì chúng cũng phải bỏ cuộc. Edern khẳng định rằng, số phận của Timoken là trở thành một nhà vua, vì thế nên chúng không thể nào cãi lại số phận được.
Timoken đội chiếc khăn lên đầu với vẻ mặt cam chiu. “Có thể Edern nói đúng,” cậu nói. “Nhưng một ông vua mà không có vương quốc của mình thì thật là đáng thương.” Nói rồi cậu mỉm cười, để mọi người an tâm rằng, cậu không quan tâm đến việc có vương quốc hay không.
Vài tuần sau, họ cũng đến được vương quốc Castile. Vương quốc đã bị tàn phá bởi chiến t đối với Beri đây vẫn là nhà và nó vẫn thật xinh đẹp. Những con đường tràn ngập quân lính, một lần nữa, Timoken và các bạn vẫn chọn con đường đi qua những cánh đồng, rừng cây, ngọn núi và những đồng cát rộng lớn.
Gabar trông vẫn có vẻ trầm tư và rầu rĩ kể từ lần chiến đấu với con quái vật màu đen. Timoken lo lắng rằng, nếu không có nước Alixir, con lạc đà sẽ nhanh chóng trở nên già yếu. Nhưng chỉ sau một vài ngày đi trên những cánh đồng cát, tâm trạng của con lạc đà đã khá lên trông thấy. Nó gặp gỡ những con lạc đà khác, mặc dù nó nghĩ đó chỉ là những con lạc đà cấp dưới. Chúng bị buộc vào nhau thành hàng, chở đầy lương thực và vũ khí. Có những con chở đồ cao hơn cả những cái bướu của chúng.
“Thật là thảm hại,” nó thở dài, ngẩng cao đầu hãnh diện, ung dung bước về phía trước.
“Đừng xem thường chúng,” Timoken nói. “Chúng đâu có muốn gia nhập quân đội.”
Những tên lính không phải là nỗi lo lắng duy nhất của Timoken. Mặc dù đi dưới bầu trời đầy nắng chan hòa, nhưng Timoken vẫn cảm thấy lòng mình nặng trĩu, cậu không thể giũ bỏ được tâm trạng đó. Cậu vẫn vui cười, ca hát với mọi người, nhưng trái tim cậu vẫn nặng trĩu vì những điềm báo. Giống như có một đám mây đen đang lượn lờ trên đầu cậu. Càng ngày, đám mây lại càng to hơn.
Đến đây thì Beri có thể nhận ra những con đường, nhưng thỉnh thoảng, cô vẫn phải dừng lại để hỏi thăm đường. Một số ngôi làng mà họ đi qua đều đã bị bỏ hoang và tàn phá, nhưng vẫn có người còn sinh sống, có những làng nhỏ ở vùng ven. Beri trở nên mất kiên nhẫn, cô nóng lòng muốn về nhà càng sớm càng tốt. Toledo trông có vẻ gần hơn, nhưng trong lúc này thì lại trở nên thật xa. Đi đường vòng tốn quá nhiều thời gian, cô năn nỉ Timoken đi vào những con đường chính. Nhưng cậu vẫn cương quyết từ chối: “Mình không thích những tên lính,” cậu nói.
Khi họ đi đến nơi có thể nhìn thấy được Toledo, họ nhận ra rằng, nơi đây giống y như những gì Beri đã kể: một thành phố có tường bao quanh thật đẹp, được xây dựng trải dài trên bảy ngọn đồi, gần như được con sông bao bọc vòng quanh. Một thành phố tràn ngập ánh sáng thân thiện chào đón... thế nhưng...
“Chúng ta phải đi vào đường chính thôi,” Beri vui mừng reo lên. “Nếu không thì chúng ta không đến được chiếc cầu dẫn vào thành phố đâu.” Họ đang đứng ở một con dốc nhỏ phía trên cánh đồng, con đường đã hiện rõ ngay bên dưới họ. Beri đá vào hông ngựa, phi thẳng xuống đồi.
“Chờ đã, Beri!” Timoken hét lên.
“Cậu sợ gì chứ?” Edern hỏi, lo lắng nhìn Timoken.
“Bọn chúng!” Timoken chỉ tay vào những bóng đen đang ngồi trên bức tường của thành phố. Chúng còn xuất hiện nhiều hơn trên những mái nhà, khung cửa và những cánh cổng.
“Những bức tượng?” Edern nói.
“Không phải,” nỗi sợ hãi trong tim Timoken nặng nề theo từng giây.
“Vậy thì là cái gì?” Edern hỏi.
“Những con chim,” Timoken nói, giọng chùn xuống. “Nhưng không phải chim.”
“Cậu có hiểu mình nói gì không?” Mabon lấy tay đặt lên trán, hướng mắt nhìn chăm chú vào thành phố. “Chắc chắn là những con chim không thể làm hại chúng ta rồi.”
Ngón tay của Timoken bỏng rát. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn. Đôi mắt trên khuôn mặt bằng bạc mở to sợ hãi. Một giọng nói yếu ớt vang lên: “Đừng đi vào thành phố.”
“Nhưng ta phải vào,” Timoken nói. “Người đã bảo với ta rằng chị Zobayda của ta đang ở đó còn gì.”
“Tôi đã gợi ý,” thần rừng đồng ý.
“Vậy thì tại sao người ngăn không cho ta vào thành phố?”
“Cậu ta cũng ở đó,” chiếc nhẫn thì thầm.
“Ta đã đoán được rồi,” Timoken căm phẫn
Peredur không thể chờ được nữa, cậu quay thúc ngựa: “Chúng ta phải đi theo Beri, không phải thuyết phục một chiếc nhẫn,” cậu nói.
“Suỵt!” Timoken vội vàng giải thích. “Tôi phải tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra trong thành phố?’
“Chúng ta sẽ biết ngay thôi.” Mabon thúc ngựa đi theo Edern xuống dốc, nhưng con ngựa của cậu lùi lại khi nghe một tiếng thét khủng khiếp phát ra từ phía thành phố.
Timoken thúc Gabar đi theo mọi người, trong khi Edern và Gereint cưỡi ngựa vượt lên trước. Mabon trấn tĩnh con ngựa của mình lại và theo sau con lạc đà.
Họ nhìn thấy ngựa của Beri trong một bụi cây nhỏ bên đường. Một cậu bé đang cầm dây cương. Quần áo của cậu rách rưới, mặt cậu đầy những vết xước sâu, Beri đang nằm dưới chân cậu.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Timoken trượt xuống từ lưng Gabar, chạy đến bên Beri. “Cậu đã làm hại cô ấy à?”
Những đứa còn lại đều xuống ngựa, quây quần bên cô bé đang nằm dưới đất.
“Cô ta hỏi chuyện gì đã xảy ra,” cậu bé biện minh. “Và tôi đã kể cho cô ấy nghe.”
Beri bắt đầu rên rỉ. Timoken đỡ cô ngồi dậy, Gereint mang cho cô túi đựng nước. Cô đẩy cái túi ra, lấy tay ôm mặt. Rồi cô bắt đầu khóc. Timoken chưa bao giờ nghe thấy tiếng khóc như vậy. Cậu tưởng rằng người cô sẽ vỡ ra cùng với những tiếng nấc. Cô ngã người ra trước và sau, gần như không thở được vì tiếng nấc và tiếng khóc cùng những cơn rên rỉ.
“Chuyện gì đã xảy ra thế?” Timoken tha thiết hỏi. “Hãy nói đi, anh bạn.”
“Thành phố đã bị xâm lược,” cậu bé kể. “Nhìn thấy những con chim đó không,” cậu chỉ tay lên bức tường thành. “Chúng đã làm mặt tôi thành như thế này.” Cậu sờ tay vào vết sẹo trên trán. “Tôi còn may mắn thoát được. Một người đã chết. Một tên phù thủy đã tới đây, và có bốn tên nữa, chúng không phải là người... những sinh vật màu xanh, mọi thứ đều đã thay đổi, người dân bị bắt và hành hạ. Tên cầm đầu chỉ là một đứa trẻ, nhưng hắn có những vũ khí ma thuật, một thanh kiếm biết bay, một hòn đá lửa và tia nhìn giết người. Mọi người đều chạy về nhà của mình và đóng chặt cửa lại. Esteban Diaz được gửi đến.”
“Esteban Diaz?” Timoken nhìn Beri.
Cô đã khóc hết nước mắt, ngồi im lặng nhìn vào không trung.
“Esteban Diaz là cha của cô ấy,” Timoken thì thầm.
Cậu bé lắc đầu: “Tôi xin lỗi. Tôi đã không biết khi nói tin này cho cô ấy.”
“Vậy là ông ấy đã chết rồi sao?”
Cậu bé buồn bã gật đầu: “Người lính dũng cảm nhất của Castile... và cũng có thể là của cả thế giới. Ngài đã giết chết hai sinh vật đó khi bị chúng bao vây. Nhưng tên phù thủy quá mạnh. Và rồi những con chim bay đến. Chúng không giống với những con chim tôi đã thấy trước đây. Chúng hầu như không có lông, mỏ sắc nhọn như dao, móng vuốt của chúng...” Cậu bé lắc đầu. “Chúng tấn công ngài Esteban từ trên không. Ngài không thể chống trả được. Khi ngài chiến đấu với bọn chúng, thì đứa trẻ đó tiến đến tấn công ngài... và ngài đã chết.”
“Cậu đã thấy tất cả ư?” Timoken hỏi.
“Tôi trốn sau cánh cửa, không dám nhúc nhích vì quá sợ hãi.”
Beri như đang bị hôn mê. Timoken đặt tay lên vai của cô và nói: “Xin chia buồn, Beri. Tớ không còn lời nào để nói. Nhưng tôi hiểu nỗi buồn của cô.”
“Chúng ta hãy đi khỏi nơi này thôi,” Mabon nói. “Chúng ta đến Toledo để tìm cha của Beri. Nhưng bây giờ đã muộn rồi.”
“Tôi hiểu cậu muốn nói gì!” Beri đứng dậy, nhìn thẳng vào Mabon. “Cậu muốn chạy trốn, phải không? Nhưng những kẻ giết người đó phải bị trừng phạt.”
Những đứa con trai khác muốn bỏ cuộc. Không một ai trong bọn nhỏ có can đảm chống lại tên phù thủy và đội quân gian ác toàn những sinh vật biết bay của chúng. Chúng muốn chạy xa khỏi thành phố này càng nhanh càng tốt.
Mặc kệ lời khuyên ngăn của thần rừng, Timoken biết rằng cậu không thể chạy trốn. Cậu đứng dậy, nhìn hướng về phía những ngọn tháp, nhà thờ, những mái ngói và những bức tường cao bằng đá. “Bọn phù thủy đang ở đâu?” Timoken hỏi cậu bé.
“Chúng đã đến nhà của Tariq, người thợ làm đồ chơi,” ánh mắt của cậu bé hướng về Timoken. “Họ nói hắn ta đang chờ một cậu bé người Châu Phi cưỡi trên một con lạc đà.”
“Vậy thì ta không nên để hắn ta đợi lâu,” Timoken nói. “Các cậu có thể chờ ở đây,” cậu nói với những người bạn. “Các cậu không phải đi với tôi và cũng không có lý do gì để các cậu liều mạng cả.” Không chờ Gabar quỳ xuống, cậu bay bổng lên và đáp xuống trên lưng Gabar.
“Nhưng còn những con chim,” Edern la lên. “Làm sao cậu có thể đánh bại được chúng?”
Timoken cười: “Rồi cậu sẽ thấy.”
Gabar lao thẳng xuống dốc, Timoken cất tiếng gọi những con đại bàng mà cậu đã gặp được trên đường đi. Trong đầu cậu, cậu nghe thấy tiếng kêu của những con chim ưng, những con cú khổng lổ, những con mòng biển, tất cả các loài chim mà cậu đã từng nghe. Cậu ngẩng đầu lên trời và luôn miệng gọi chúng.
Beri nhảy lên ngựa và bám theo Timoken: “Cậu không nghĩ là tôi sẽ ở lại phía sau, phải không?” cô thét lên.
Gereint đột nhiên hát: “Tôi biết cậu đang làm gì, Timoken. Tôi cũng có thể bay như một con chim và tôi cũng đi đến Toledo.”
Eder hăng tiết. Cậu ước gì mình là người đầu tiên đi theo Timoken. “Nhanh lên nào, Peredur, Mabon. Chúng ta không thể để họ đi mà không có chúng ta.”
Thế là, nhóm sáu người bọn họ cùng nhau đi đến cây cầu đầu tiên dẫn vào Toledo. Những thanh gươm của họ đã được rút ra sẵn sàng, những cái khiên có khắc hình đeo bên hông. Chó sói, gấu, cá, chim, thỏ rừng nhảy nhót, mặt trời rực lửa. Quân lính đã chạy trốn hết, cánh cổng mở toang, nhưng khi bọn trẻ vừa bước vào thành phố, những con chim bắt đầu vây thành vòng tròn trên đầu họ.
Thành phố đã bị tàn phá, nhưng tiếng kêu khóc vang lên ở khắp mọi nơi, sau những ô cửa sổ. Ngoài ra, chỉ có âm thanh từ những con chim khổng lồ đen thui, tiếng kêu cao vút, kinh hoàng.
Timoken tìm bóng dáng của những con chim mà cậu vừa gọi trên bầu trời. Nhưng không có con nào xuất hiện.
“Vậy thì chỉ còn một cách,” cậu vừa nói vừa đứng lên trên yên.
“Timoken, cậu làm gì vậy?” Beri gào to.
“Tôi sẽ chiến đấu.”
Gabar nói: “Cậu có muốn tôi đi cùng không?”
“Không phải lúc này, gia đình thân mến.” Timoken nói, cười vang.
Nỗi lo lắng của cậu đã không còn, vẫn tiếp tục cười tươi, cậu bay thẳng lên trời, hướng mũi kiếm về phía con chim to nhất.