Chương 11: Chương 10

Chương 10: “Cậu Là Vua!”

Mùa hè đã đến, nhưng ở những đất nước ở vùng núi nơi Timoken đang ở, ban đêm vẫn còn lạnh giá. Vào một buổi sáng, khi Timoken và Gabar đang đi trên một con đường hẹp trong khe núi, bỗng nhiên họ nghe có tiếng k

êu cứu. Đó rõ ràng là tiếng kêu cứu tuyệt vọng của một người đang gặp nạn.

Timoken dẫn đường cho Gabar thay vì cưỡi trên lưng nó, giờ thi Timoken bỏ dây cương xuống, quỳ xuống mỏm đá, nhìn về phía rìa con đường. Lúc đầu, Timoken không thấy gì cả, mãi một lúc sau, cậu mới nhận ra bóng của một cậu bé ở đằng xa. Cậu bé đang ngồi trên một mỏm đá nhỏ nhô ra chỉ cách mặt nước chừng một mét, ngay bên trên một dòng nước sông đang cuồn cuộn chảy xiết. Cậu bé có mái tóc màu đỏ đồng và nước da trắng bệch của cậu trông càng trắng hơn so với dòng máu đỏ thẫm chảy ra từ mũi cậu.

“Tôi bị ngã!” cậu bé nhìn đã nhìn thấy Timoken. “Cậu có thể giúp tôi không?”

Một ngôn ngữ thật lạ. Timoken nghĩ, nhưng cậu có thể hiểu những gì cậu bé kia nói. Timoken ngồi xuống, nghĩ xem mình nên làm gì để giúp cậu bé kia.

“Xin đừng bỏ tôi, tôi xin cậu!” cậu bé kia lại nói. “Tôi nghĩ là tay tôi bị gãy rồi, và tôi không thể bơi được.”

Làm sao cậu ấy có thể nghĩ rằng sẽ có người cứu được mình? Phiến đá quá nhỏ bé, gần như sắp bị cuốn trôi theo dòng nước. Thậm chí, nếu có một sợi dây thừng ở đó cũng không thể cứu được khi cậu ta đã bị gãy mất một tay. Timoken khônglựa chọn nào khác. Cậu phải bay đến đó thôi.

“Gabar, hãy đứng yên đó nhé!” Timoken nói. “Con đường này rất nguy hiểm.”

Gabar kêu lên một tiếng, thử giậm chân xuống đất, lập tức những hòn đá nhỏ bắt đầu vỡ ra và lăn xuống sường núi.

“CỨU TÔI VỚI!” tiếng kêu cứu lại vang lên.

“Tôi đến đây,” Timoken nói. Cậu nâng mình lên khỏi con đường rồi nhẹ nhàng bay đến phiến đá có cậu bé kia đang ngồi. Họ nhìn nhau ngạc nhiên trong giây lát. Và rồi, cậu bé lạ mặt hỏi cậu: “Người Châu Phi nào cũng biết bay à?”

“Không”, Timoken đáp. “Thế người của bộ tộc của cậu ai cũng có tóc đỏ và... những cái bớt trên mặt như thế à?”

“Chỉ có một vài người thôi,” cậu bé nói. “Cha và các anh của tôi ai cũng có tàn nhang trên mặt cả.”

Một đợt đất đá đột ngột rơi xuống kế bên chỗ cậu bé, và nó kêu lên: “Cậu có thể nâng tôi lên được không, người Châu Phi? Cậu có thể cho tôi bay cùng được không?”

“Tôi có thể nâng cả một con lạc đà,” Timoken nói, vòng tay qua người cậu bé. Nhẹ nhàng nâng người cậu bé lên, Timoken dễ dàng đưa cậu đến chỗ Gabar đang đợi.

Gabar giật mình trước sự xuất hiện của hai cậu bé, nó e ngại bước tránh ra xa. Một chân sau của nó trượt khỏi lối đi, đá dưới chân nó đột ngột vỡ ra, con lạc đà ngã khỏi con đường mòn, kêu rống lên sợ hãi.

Không hề chần chừ, Timoken đặt cậu bé xuống đất, cố bay theo để chụp Gabar. Cậu cố kéo Gabar lên nhưng con lạc đà quá nặng với đống hành lý trên người nó. Nó ngã xuống dòng nước đang chảy mạnh như một tảng đá. Tiếng kêu thảm thương của nó vang lên trong bọt nước trắng xóa.

Timoken lao mình xuống nước theo Gabar. Dòng sông dày đặc rong rêu và cỏ dại, nhưng Timoken c cảm nhận được đám lông rậm rạp của Gabar dưới mặt nước, vòng tay qua cổ Gabar, cậu cố gắng kéo nó lên bằng tất cả sức lực của mình. Gabar vùng vẫy một lúc rồi toàn thân nó từ từ chìm xuống đáy sông.

Timoken áp mặt mình vào đầu con lạc đà, cố giữ cho miệng của nó ngậm lại, cậu nói vào tai nó: “Ngươi không chìm đâu, ngươi không thể chìm được đâu. Ngươi là gia đình của ta, ta cũng là gia đình của ngươi. Lên nào, Gabar! Lên nào.”

Đầu con lạc đà chìm xuống nước, nhưng Timoken vẫn không buông tay. Ngực cậu như muốn nổ tung ra và cậu thèm hớp một ngụm không khí biết là bao, nhưng cậu vẫn cố nắm lấy cổ Gabar, nói vào tai nó một lần nữa: “Lên nào, Gabar! Lên, lên nào.”

Gabar không cử động. Timoken thoáng nghĩ tói cậu bé mà mình vừa mới cứu. Cậu ta sẽ phải làm gì nếu như Timoken chết đuối cùng với con lạc đà? Cậu có thể chết chìm, nếu Gabar không tỉnh lại. Timoken không thể bỏ lại người bạn thân yêu nhất và cũng là gia đình duy nhất của cậu.

Có một chuyển động từ bên dưới cậu. Con lạc đà đang đạp chân. Với tia hy vọng cuối cùng, Timoken kéo đầu con lạc đà lên trên, lên khỏi mặt nước, họ cùng hớp lấy một ngụm dài không khí, rồi con lạc đà cố gắng ngoi cả tấm thân nặng nề lên khỏi mặt nước trong khi Timoken không ngừng cổ vũ nó. Những cái chân to bự của Gabar đạp mạnh trong nước, Timoken nhấc nó lên không trung. Giờ thì họ đang bay, tiếng reo hò sung sướng và tiếng khóc òa nhẹ nhõm lấp đầy cả một khoảng không trung.

Họ hạ xuống con đường mòn, hơi mất thăng bằng một chút. Gabar quỳ xuống, nước trong những cái túi treo trên yên nó chảy ra. Timoken giúp gỡ những cái túi xuống khỏi người con lạc đà nhanh nhất mà cậu có thể làm. Chỉ khi Timoken chắc chắn rằng Gabar đã an toàn, cậu mới để ý đến cậu bé tóc đỏ đang há hốc nhìn cậu sợ hãi.

Timoken nhe răng cười với cậu: “Tôi tưởng mình đã mất nó rồi chứ,” Timoken nói. “Nó là gia đình của tôi, cậu thấy đấy!”

Cậu bé vẫn nhìn chăm chăm vào Timoken. Cuối cùng, cậu ấy cũng có thể mờ lời: “Cậu là cái-gì vậy?”

“Tôi chỉ là một cậu bé bình thường thôi,” Timoken đ

Cậu bé lắc đầu nguầy nguậy: “Không, cậu là một vị vua, tôi nghĩ vậy.” Cậu bé chỉ tay vào chiếc vương miện bằng vàng trên mái tóc dày của Timoken. Chiếc vương miện này chưa bao giờ rời khỏi đầu Timoken. “Một vị-vua-phù-thuỷ,” cậu bé ấy nói tiếp, giọng từ từ nhỏ lại.

Timoken không thể nhịn được cười. Cậu vẫn đang rất vui vì đã cứu được Gabar. “Tên tôi là Timoken, lẽ ra tôi sẽ trở thành vua,” cậu thừa nhận, “nếu như tôi có một vương quốc. Nhưng tất cả đã mất hết rồi.” Cậu im lặng một lúc, rồi vui vẻ nói: “Chúng ta phải tìm nơi an toàn để hong khô người và nói chuyện.”

Cậu bé tóc đỏ đi trước. Cậu đi khập khiễng vì bị thương ở cổ chân, nhưng những bước đi của cậu thật vững vàng, bàn tay lành lặn của cậu giữ cánh tay đang bị thương tựa vào người. Gabar đi theo sau cậu, cẩn thận từng bước chân trên con đường gập ghềnh. Còn Timoken đi sau cùng, để trông chừng hai người bạn của mình. Cậu kéo theo tấm yên và những chiếc túi ướt sũng, cậu nghĩ tới áo choàng mặt trăng. Cậu có thể dùng nó để sưởi ấm lưng cho Gabar và có lẽ sẽ chữa lành được cánh tay cho cậu bé kia.

Thật may mắn là họ không phải đi lâu để tìm thấy một chỗ nghỉ chân, đó là một lùm cây nhỏ mọc bên trong một mỏm đá cũ. Họ đã có nơi để trải quần áo ướt ra, Gabar thì có chỗ ngồi dưới nắng để hong khô bộ lông của mình.

Cánh tay của cậu bé tóc đỏ không bị gãy, nhưng nó bầm tím. Timoken đưa cho cậu bé một ít nước uống và rồi, cậu e dè nhóm một đống lửa. Mặc dù mặt trời vẫn còn chiếu sáng, nhưng những cơn gió thì lạnh buốt, Gabar đang run lên vì hoảng sợ và vì gió lạnh.

Cậu bé nhìn Timoken một lúc rồi nói: “Chú của tôi cũng làm được như thế!”

“Chú của cậu có thể dùng ngón tay để...?”

“Để tạo ra lửa, phải. Nhưng chú ấy không bay được.”

Timoken bắt đầu phơi những vật dụng của mình dưới nắng. Cậu đưa cho cậu bé kia một miếng thịt khô, họ ngồi nhìn đống lửa rồi nhìn nhau, mãi một lúc sau, Timoken mới hỏi t

“Edern” cậu bé đáp, cậu không thể giữ im lặng được nữa, cậu bắt đầu kể về câu chuyện của mình, làm thế nào mà cậu lại đến một nơi nguy hiểm và xa xôi như thế này.

“Tớ đến từ một vùng đất rất xa, cách đây rất nhiều ngày đường,” Edern nói. “Cha tớ là một nhà thơ, tớ sống trong một lâu đài nguy nga, vì hoàng tử của đất nước chúng tớ xem trọng thơ ca còn hơn cả những người lính. Một đêm nọ, một nhóm thầy tu đi đến lâu đài xin cho trú chân. Gia đình tớ có trách nhiệm phải đối xử tốt với những người tu hành nên cho họ vào nhà. Nhưng tối hôm đó, chúng lẻn vào phòng và bắt cóc tớ cùng ba người bạn khác khi chúng tớ đang ngủ. Trước khi kịp kêu cứu, bọn chúng nhét khăn vào miệng, trói tay và chân chúng tớ lại. Bọn chúng mang bốn đứa ra khỏi lâu đài, qua mặt cả hai tên gác cổng đang ngủ, ngủ say như chết, chắc chắn là vậy rồi.” Edern nghiến răng tức giận. “Tụi tớ vùng vẫy và kháng cự, nhưng bọn chúng không phải là những thầy tu bình thường, chúng lực lưỡng như những con bò mộng, hung ác và tàn bạo. Chúng ném bọn tớ vào một chiếc xe ngựa và đưa cả bọn đến một con tàu đang chờ sẵn. Tụi tớ bị đưa đi trong những bao tải, giống như những túi rác, và bị quăng vào một xó. Trên thuyền còn có những đứa trẻ khác nữa, tất cả đều kêu khóc, rên rỉ. Một số khác thì nằm yên như những xác chết.”

Edern vỗ vỗ vào cánh tay bị thương của mình và nhìn lên trời, dùng tay che mặt khỏi ánh nắng: “Khi chúng tớ đến vùng đất này, bất kể là nơi đâu, chúng tớ luôn bị áp tải trên một chiếc xe ngựa. Nhưng đã có một số đứa bị bệnh, thế là bọn chúng vứt những đứa ấy lại để tụi nó chết trên đường, như những con chó vậy.”

“Nhưng cậu đã thoát được,” Timoken nói, cố gắng nói bằng giọng lạc quan. “Vậy là bây giờ cậu đang trên đường về nhà?”

Edern lắc đầu: “Tớ không thể đi nếu không có các bạn mình. Tớ đã hứa là sẽ quay lại để cứu các bạn ấy, khi tớ tìm thấy ai đó có thể giúp được chúng tớ.”

“Vậy là cậu đã tìm thấy rồi đấy.” Timoken nói. “Nhưng bọn người giả làm thầy tu kia là ai thế? Chúng bắt cóc cậu để tống tiền à? Và cha mẹ cậu không đủ tiền trả cho chúng hả?”

Edern nghiêng người về phía trước. “Chúng tớ sẽ trở thành nô lệ,” cậu nói thật khẽ. “Những người giàu có ở phương Đông sẽ trả rất nhiều tiền để mua nô lệ da trắng, tóc vàng...” cậu sờ vào tóc mình, cười buồn bã và có lẽ còn nhiều hơn nữa, để có được đứa có màu tóc như tôi.”

“Nô lệ ư?” Timoken hoảng hốt nói. “Thế các bạn của cậu đang ở đâu? Có xa chỗ này không?”

“Không xa lắm đâu,” Edern nói. “Con đường này sẽ dẫn đến một khu rừng nhỏ, đi qua đó sẽ là một thung lũng rộng. Những tên thầy tu giả giữ những người bạn của tớ ở kho thóc sau những lùm cây. Tối nào chúng cũng cột tay của tụi tớ lại với nhau. Tớ ngồi ở cuối hàng, ngồi kế bên tớ là Peredur. Peredur nổi tiếng với hàm răng chắc khỏe của mình, chúng sắc ngọn như răng sói.” Edern nhe hàm răng của mình ra và chỉ vào hai cái răng cửa. “Cậu ấy từ từ cắn đứt sợi dây nối giữa hai đứa chúng tớ, hai đứa thay phiên nhau cắn đứt sợi dây thừng. Ngay khi thoát được, tớ trèo lên vai Peredur và leo ra ngoài, qua cái lỗ hổng trên trần nhà. Tớ nhảy từ mái nhà xuống đất và chạy như bay.”

“Không có ai canh giữ các cậu à?”

“Tất cả bọn chúng đều ngủ say như chết trong ngôi nhà bằng đá bên cạnh kho thóc. Những con chó có nhiệm vụ canh chừng bọn tớ; ba con chó săn vằn vện ấy sẽ sủa ẩm lên khi nghe bất cứ tiếng động nào, dù là nhỏ nhất.”

“Vậy là chúng không nghe được tiếng của cậu, cũng không nhìn thấy cậu trốn đi sao?”

“Tất nhiên là có chứ. Nhưng chúng tớ để dành một ít thịt từ bữa tối, giấu nó ở dưới tảng đá làm ghế ngồi. Tớ ném miếng thịt cho những con chó, và chúng để tớ đi. Những tiếng sủa đầu tiên của chúng đã làm bọn thầy tu giả thức giấc, một tên trong bọn ngần ngừ bước ra khỏi nhà để xem xét. Chắc hắn tưởng là bọn chó chỉ đang ăn thịt một con thỏ hay một con vật nào đó nên hắn chửi rủa con chó vì đã làm ồn, rồi quay về chỗ ngủ.”

Tâm trí Timoken bắt đầu chạy đua. Cậu tự tin rằng mình có thể cứu được những người bạn của Edern, nhưng cậu cần phải lên kế hoạch hành động. “Các cậu có bao nhiêu người ở đó?” Timoken hỏi.

“Khoảng hai mươi hoặc hơn. Nhưng chỉ có mười hai đứa chúng tớ sống sót sau cơn bệnh. Chúng ta phải nhanh chóng cứu họ thôi,” Edern lo lắng nói. “Ngày mai bọn lại tiếp tục lên đường.”

“Nếu như chúng đã lên đường rồi thì sao?” Timoken nói. “Liệu những tên cướp ấy có nghỉ lại một nơi hai đêm liền không?”

“Chúng đang chờ một người nào đó,” Edern nói. “Bọn tớ nghe được cuộc nói chuyện của chúng. Một cô gái trong bọn sẽ bị đưa đi vào ngày mai. Cô ấy bị nhốt trong một cái lồng.” Thằng bé dừng lại một lúc rồi nhíu mày nói thêm. “Tớ lo cho cô ấy lắm, Timoken. Tớ lo cho tất cả các bạn của mình, nhưng qua cuộc nói chuyện của chúng, tớ nghĩ rằng chúng muốn món tiền lớn khi bán cô gái, vì vậy, chúng sẽ canh chừng cô ấy rất kỹ. Có thể, chúng ta sẽ không cứu được cô ấy.”

“Không có gì là không thể cả,” Timoken nói. “Mình đã có cách. Chúng ta sẽ chờ đến khi trăng lên.”

Tối hôm đó, Timoken bỏ hết tất cả đồ đạc của mình vào túi. Mọi thứ đều đã khô ráo, ngay cả tấm chăn len dày cũng đã khô. Gabar cũng đã phục hồi sức khỏe, nó đã ăn tối no nê với trái cây khô và cỏ non trước khi đi ngủ. Timoken lấy áo choàng mặt trăng ra, trải nó dưới tán cây. Edern nhìn cậu, vẻ mặt ngạc nhiên và tò mò.

“Đó là cái gì vậy?”

Timoken ngập ngừng. Cậu có nên nói cho Edern nghe về tấm tơ nhện không? Edern đã biết quá nhiều về cậu, vậy thì sẽ không có vấn đề gì khi tiết lộ thêm một bí mật nữa. Timoken tin cậu ấy. Edern chắc không phải là người mà chiếc nhẫn muốn cảnh báo với cậu.

“Đây là vật được làm từ tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng,” Timoken nói. “Mình gọi nó là áo choàng mặt trăng, nó sẽ bảo vệ chúng ta. Chúng ta phải ngủ một giấc trước khi đi cứu các bạn cậu. Timoken nằm xuống bên dưới tấm áo choàng mặt trăng, vẫy tay bảo Edern đến nằm cạnh cậu.

Sau một lúc lưỡng lự, Edern nằm xuống bên cạnh Timoken. Cậu bé tóc đỏ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, nhưng Timoken thì nằm ngắm nhìn bầu trời đầy sao. Mặt trăng đâu rồi nhỉ? Họ cần ánh sánh để cứu những đứa trẻ bị nhốt và chạy trốn. Cậu nhìn một hồi lâu vào quầng sáng mờ mờ mới nhận ra rằng, mặt trăng non đang mọc từ phương Đông.

Timoken nhanh chóng c ra khỏi chăn, cậu chạy đến tìm trong những chiếc túi trên lưng Gabar. Cậu nhớ là mình đã để nước Alixir trong chiếc túi da bê màu đỏ. Chiếc túi đã biến mất.

“Chắc là nó bị rơi xuống nước,” Timoken tự nhủ, “khi Gabar tội nghiệp bị té xuống sông.” Cậu nhìn lên mảnh trăng gầy gò và chợt cảm thấy rùng mình. Cậu vẫn chưa tìm được nhà của mình, vậy là từ giờ cậu sẽ lớn lên và già đi. Cậu sẽ trở thành một người bình thường.

Việc lớn lên đối với cậu thật thú vị, nhưng cũng có phần đáng sợ. Cậu đã mười một tuổi trong hai thế kỷ qua; vậy mà không đến mười một năm nữa, cậu sẽ trở thành một người trưởng thành.