Chương 8
Công việc đánh bắt trên hồ Payette khá thuận lợi nên đến tận thứ Ba tuần sau đó, ông cảnh sát trưởng Potter mới về nhà. Nhưng ngay khi danh thiếp của Maddie đến tay ông ta, ông lập tức gọi cho cô và hẹn gặp cô ngày hôm sau ở nhà ông. Trong sự nghiệp viết truyện của cô có một thứ mà lúc nào cô cũng có thể tin tưởng dựa dẫm, đó là cảnh sát. Dù là một thám tử thuộc sở cảnh sát Los Angeles hay một cảnh sát trưởng ở một thị trấn nhỏ, ông cảnh sát nào cũng thích tán chuyện về các vụ án trước đây.
“Tôi sẽ không bao giờ quên đêm hôm đó,” ông cảnh sát trưởng nghỉ hưu nói, trong khi mắt đang nhìn vào những bức ảnh hiện trường vụ án qua đôi mắt kính. Trong khi những viên cảnh sát trưởng nghỉ hưu khác ngày càng trở nên béo phì thì Bill Potter vẫn giữ được thân hình khá mảnh dẻ và đầu bạc trắng. “Cảnh tượng đó thật hỗn độn.”
Maddie đẩy chiếc máy ghi âm nhỏ tới gần cái ghế tựa hiệu La-Z-Boy màu xanh da trời nhạt mà ông cảnh sát đang ngồi. Bên trong căn nhà của gia đình Potter là một mớ hổ lốn, vừa trang trí họa tiết hoa lá cành vừa mang nét hoang dã. Chúng đối nhau chan chát ở mọi mức độ đến nỗi Maddie sợ rằng mắt cô sẽ bị hoa lên chỉ sau một chốc.
“Tôi biết Loch và Rose từ khi họ là những đứa trẻ.” Bill Potter tiếp tục. “Tôi lớn hơn vài tuổi, nhưng ở một thành phố nhỏ cỡ này, đặc biệt là vào những năm bảy mươi, thì mọi người đều biết nhau. Rose là một trong những phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng gặp. Tôi đã rất sốc khi chứng kiến những gì cô ấy đã làm với hai người đó và với chính bản thân.”
“Có bao nhiêu vụ giết người mà ông đã điều tra trước khi vụ nhà Hennessy diễn ra?” Maddie hỏi.
“Một, nhưng hoàn toàn khác so với vụ nhà Hennessy. Ông già Jenner bị bắn trong vụ cãi nhau về chuyện một con chó. Hầu hết chúng tôi tiếp nhận những vụ bắn nhầm, và thường là vào mùa săn bắn.”
“Cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường là...” Maddie dừng lại để đọc bản báo cáo.
“Cảnh sát Grey Tipton.”
“Đúng. Anh ấy đã rời sở cảnh sát vài tháng sau khi xảy ra vụ việc và chuyển đi nơi khác,” ông cảnh sát trưởng nói. “Và nghe đâu anh ta cũng mới qua đời vài năm trước.”
Lại một trong số hàng tá chướng ngại vật chống lại cô ở cái thị trấn này. Người thì không sẵn sàng nói về những chuyện đã xảy ra, người thì đã chết. Ít nhất cô cũng có được những báo cáo và ghi chú của cảnh sát Tipton. “Đúng rồi, ông ta chết trong một vụ tai nạn xe địa hình năm 1981. Vụ án có liên quan gì với việc ông ấy rời sở cảnh sát không?”
Ông Potter sắp xếp lại đống ảnh. “Liên quan rất nhiều là đằng khác. Grey là bạn rất thân của Loch. Và nhìn thấy anh ấy bị bắn như vậy, Grey đã bị ám ảnh đến nỗi không thể ngủ được.” Ông ta giơ bức ảnh Rose nằm cạnh người chồng đã chết lên. “Đó là lần đầu tiên chúng tôi chứng kiến cảnh như vậy. Tôi nhận rất nhiều vụ tai nạn xe hơi và cũng thấy cảnh máu me be bét, nhưng đó không phải vụ án cá nhân.”
Vì sẽ chẳng có vụ xét xử nào để viết, Maddie cần phải khai thác thông tin cá nhân càng nhiều càng tốt. Và vì gia đình Hennessy không chịu hợp tác, cô phải dựa vào những nguồn thông tin khác.
“Grey đã rất khổ sở với chuyện đó. Anh ấy phải bỏ việc. Anh ấy phải đi vì không biết giải quyết tình huống ra sao.”
Trong một giờ sau đó, họ nói về hiện trường vụ án. Các bức ảnh và bản báo cáo trả lời cho các câu hỏi ai, cái gì, ở đâu, khi nào và tại sao dường như vẫn còn rất mù mờ. Maddie đổi một cuộn băng khác vào các máy ghi âm nhỏ, rồi hỏi, “Ông biết cả Loch lẫn Rose, vậy ông nghĩ đêm hôm đó chuyện gì đã xảy ra?”
Trong mọi vụ án tương tự thế này, sẽ luôn luôn có một chất xúc tác. Một sự căng thẳng nào đó xuất hiện và đẩy phạm nhân đến bên bờ vực thẳm. “Từ những gì tôi nghe được và đọc được, Alice Jones không phải là nhân tình duy nhất của Loch.”
“Đúng vậy, cô ấy không phải là người duy nhất. Cuộc hôn nhân của họ giống như một trò tàu trượt đã trong nhiều năm rồi.” Ông cảnh sát trưởng lắc đầu và gỡ cặp kính.
“Trước khi họ chuyển đến ngôi nhà kiểu trang trại ngay ngoài thị trấn, họ đã từng sống bên hồ ở Pine Nut. Cứ vài tháng tôi lại nhận được điện thoại từ hàng xóm của họ và tôi lại phải tới đó.”
“Vậy mỗi lần đến thì có chuyện gì?”
“La hét ỏm tỏi, hầu hết là như vậy. Có lần thì quần áo của Loch bị xé toạc, có lần thì trên mặt có vết đỏ.” Bill cười tủm tỉm. “Có một lần tôi đến đó và cửa sổ đằng trước bị vỡ tan, một cái chảo đang nằm ngoài sân.”
“Có ai bị bắt bao giờ chưa?”
“Không không. Lần sau cô nhìn thấy họ, họ lại yêu thương quấn quýt và tỏ ra rất hạnh phúc.”
Và khi không yêu thương quấn quýt thì họ kéo người khác vào cuộc hôn nhân hỗn loạn của họ à? “Nhưng ngay khi họ chuyển đến trang trại đó, ông đã không phải nhận các cuộc gọi nữa?”
“Đúng vậy. Vì xung quanh có còn hàng xóm nữa đâu.”
“Bây giờ căn nhà đó đâu rồi?”
“Đã cháy rụi...” Ông dừng lại một chút để suy nghĩ, và những nếp nhăn sâu hằn lên trên trán ông. “Phải đến hai mươi năm trôi qua rồi. Một đêm, ai đó đã tới đó, tưới xăng lên đó và châm lửa.”
“Có ai bị thương không?
“Lúc đó không có ai sống trong căn nhà đó.” Ông cau mày lại rồi lắc đầu. “Thủ phạm làm chuyện đó vẫn chưa được phát hiện. Tuy nhiên tôi cũng có nghi ngờ một vài người.”
“Ai?”
“Quá nhiều người muốn cái ngôi nhà đó biến đi. Bọn trẻ thì chỉ chơi diêm quanh đó nhưng sẽ không đốt nhà như vậy.”
“Mick?”
“Và chị gái cậu ta, mặc dù tôi không chứng minh được điều đó. Mà tôi cũng không thực sự muốn chứng minh điều đó, nói đúng ra là như vậy. Lớn lên, Mick đã luôn gây rắc rối. Lúc nào cũng là một mối lo ngại, nhưng tôi thấy rất thương nó. Cậu ấy có một cuộc sống khá khổ sở.”
“Có rất nhiều những đứa trẻ cũng mất cha mẹ mà đâu có trở thành những kẻ đốt nhà?”
Ông cảnh sát trưởng rướn người lên. “Những đứa trẻ đó không phải sẽ cuộc sống mà Rose Hennessy để lại cho các con của bà.”
Đúng thế, nhưng Maddie cũng phần nào nếm cái cuộc sống đó rồi. Cô lật một trang trong cuốn sổ của mình rồi nói, “Alice Jones sống trong một ngôi nhà lưu động. Ông có một phụ nữ tên là Trina không? Có thể người này cũng sống trong nhà lưu động đó năm 1978?”
“Cái tên đó lạ hoắc.” Ông nghĩ một lúc, rồi nghển lên phía trước. “Có lẽ cô nên nói chuyện với Harriet Landers. Bà ấy sống trong nhà đó trong nhiều năm khi mảnh đất được bán đi ột chuyên viên thiết kế, bà ấy đã phải dọn dẹp và chuyển đi nơi khác.”
“Bây giờ Harriet sống ở đâu?”
“Levana,” ông gọi tên bà vợ. Khi bà xuất hiện ở phía cuối căn nhà, ông hỏi, dạo này Harriet Landers sống ở đâu nhỉ?”
“Tôi nghĩ bà ấy sống ở biệt thự Samaritan.” Levana nhìn Maddie và nói thêm, “Đó là một khu an dưỡng cho người nghỉ hưu, gần phố Whitetail và Fifth. Bây giờ bà ấy hơi nặng tai đấy.”
“Cái gì cơ?” Harriet Landers hỏi to khi đang ngồi trên chiếc xe lăn. “Cô nói to lên, vì lòng trắc ẩn với bà già này.”
Maddie ngồi trên một cái ghế cũ bằng sắt trong một khu vườn nhỏ ở biệt thự Samaritan. Nhìn người phụ nữ già nua, thật khó để đánh giá tuổi của bà. Maddie đoán chắc chỉ còn một chút nữa là xuống lỗ và hóa thạch. “Tên tôi là Maddie Dupree! Tôi không biết liệu có thể...”
“Cô là nhà văn đó à?” Harriet ngắt lời. “Tôi nghe nói cô đến đây để viết một cuốn sách về gia đình Hennessy.”
Tuyệt đấy. Thông tin lan nhanh đến nỗi trong trại an dưỡng người ta cũng biết. “Đúng rồi. Tôi nghe nói bà đã từng sống trong ngôi nhà lưu động Roundup.”
“Trong khoảng mười lăm năm.” Bà đã rụng gần sạch những lọn tóc bạc và răng cũng rơi gần hết. Bà mặc một cái áo ở nhà màu hồng có cúc và đăng ten trắng. Nhưng dường như đầu óc bà có vấn đề gì cả. “Tôi không biết có thể kể cho cô về điều gì đây.”
“Về việc sống ở Roundup.”
“Hừm.” Bà ta giơ bàn tay gầy gò đập con ong trước mặt. “Không có nhiều thứ để nói cho lắm nên không chắc cô có muốn nghe hay không. Người ta nghĩ rằng những người sống trong các căn nhà lưu động đều là những kẻ nghèo khổ, cặn bã. Nhưng tôi luôn yêu căn nhà của mình. Tôi thích cái cảm giác mình có thể thu dọn và chuyển căn nhà đi chỗ khác bất cứ lúc nào tôi muốn.” Bà nhún đôi vai xương xẩu. “Tuy nhiên tôi chưa bao giờ làm điều đó.”
“Mọi người có thể rất tàn nhẫn và thô bạo,” Maddie nói. “Khi còn nhỏ, tôi cũng từng sống trong một căn nhà lưu động. Và tôi nghĩ đó là nơi tuyệt nhất.” Đó là sự thật, vì căn nhà đó là sự cải thiện đáng kể so với tất cả những nơi trước đây mẹ con họ từng ở. “Và tất nhiên chúng tôi không phải là những kẻ cặn bã.”
Đôi mắt xanh trũng sâu của Harriet nhìn Maddie dò xét thật nhanh. “Cô từng sống trong một căn nhà như thế à?”
“Vâng thưa bà.” Maddie giơ cuộn băng lên. “Bà có phiền nếu tôi ghi âm cuộc nói chuyện của chúng ta?”
“Để làm gì?”
“Để tôi không trích dẫn sai câu nói của bà.”
Harriet đặt hai khuỷu tay gầy guộc lên thành chiếc xe lăn và nhỏm người lên. “Cô cứ việc.” Bà chỉ vào cái máy ghi âm. “Cô muốn biết chuyện gì?”
“Bà có nhớ cái mùa hè Alice Jones sống ở Roundup không?”
“Tất nhiên, mặc dù tôi không sống cạnh nhà cô ấy. Nhưng thỉnh thoảng tôi nhìn thấy cô ấy khi lái xe qua. Cô ấy rất xinh đẹp và còn có một cô con gái nhỏ. Đứa bé đó thường chơi đánh đu suốt ngày đêm trên cái đu ở sân trước.”
Đúng vậy. Phần đó thì Maddie biết. Cô vẫn còn nhớ mình đã đu lên thật cao. Cô nghĩ các ngón chân mình có thể chạm đến rời. “Bà đã nói chuyện với Alice Jones bao giờ chưa? Có những cuộc nói chuyện cởi mở ấy?”
Các nếp nhăn trên trán của bà cau lại. “Tôi không nhớ nữa. Đã lâu lắm rồi và trí nhớ của tôi dạo này không tốt.”
“Tôi hiểu. Trí nhớ của tôi cũng không phải lúc nào cũng ổn.” Cô nhìn vào cuốn sổ ghi như để nhớ lại mình cần phải hỏi gì tiếp theo. “Bà có nhớ một người tên là Trina, cũng từng sống ở căn nhà trong cùng thời gian đó không?
“Đó có lẽ là Trina Olsen. Con gái giữa của Betty Olsen. Cô ấy có tóc đỏ rực và tàn nhang.”
Maddie viết họ của cô ta ra giấy và khoanh tròn. “Hiện giờ bà ấy còn sống ở Truly không?”
“Không. Betty mất rồi. Chết do ung thư gan.”
“Tôi rất tiếc.”
“Tại sao? Cô cũng biết bà ấy à?”
“À... không.” Cô đóng nắp bút lại. “Bà còn nhớ gì trong khoảng thời gian Alice Jones sống ở Roundup nữa không?”
“Tôi nhớ rất nhiều thứ.” Bà chuyển tư thế một chút, rồi nói tiếp, “Tôi nhớ Galvin Hennessy, chắc chắn một điều như vậy.”
“Đó là cha của Loch?” Maddie hỏi, chỉ để xác minh. Galvin thì liên quan gì đến mẹ Maddie?
“Đúng rồi. Ông ấy đúng là gã quỷ quái với cái mã đẹp trai, cũng như mọi người đàn ông khác trong gia đình Hennessy.” Bà ta lắc đầu và thở dài. “Nhưng một cô gái sẽ thật ngu ngốc khi kết hôn với một gã mang họ Hennessy.”
Maddie đọc lướt qua tờ giấy ghi chú để tìm cái tên Galvin. Cô giở qua một tờ bướm quảng cáo một ngày thành lập gì đó mà cô vừa được dúi vào tay ở bàn tiếp tân. Nhưng theo những gì cô nhớ thì Galvin chưa bao giờ được nhắc tới trong các bản báo cáo của cảnh sát.
“Tôi hẹn hò với ông ta rất nhiều lần, cho đến khi ông ta gục chết ở ghế sau chiếc Ford Rambler của tôi.”
Maddie ngẩng đầu lên. “Xin lỗi? Gì cơ ạ?
Harriet cười phá lên, một âm thanh răng răng, lạch cạch phát ra và bà ta đang ho rũ rượi. Maddie lo lắng để cuốn sổ xuống cỏ và chạy ra đấm lưng cho Harriet thùm thụp. Khi bà ấy đã trở lại bình thường. Maddie mới hỏi, “Bà không sao chứ?” Được rồi,
Harriet già cả rồi, nhưng cô không muốn mình là lý do khiến bà ấy bất tỉnh nhân sự.
“Tôi ước gì cô nhìn thấy phản ứng trên mặt cô lúc nãy. Tôi không nghĩ điều đó có thể gây sốc ọi người trong thị trấn nữa. Nhất là khi tôi đã ở tuổi này rồi.” Harriet cười tủm tỉm.
“Vậy,” Maddie lại ngồi xuống. “Galvin có liên quan gì đến sự việc xảy ra ở quán Hennessy’s không?”
“Không. Trước khi mọi thứ xảy ra, ông ta đã chết rồi. Loraine không bao giờ tha thứ cho tôi vì Galvin đã chết ở ghế sau xe của tôi. Nhưng thử mà xem, ở cái thị trấn này, cô không thể ném một viên đá mà không trúng phải ai đó từng ngủ với một người đàn ông nhà Hennessy.”
“Tại sao?” Maddie hỏi. “Có rất nhiều người đàn ông vừa đẹp trai vừa quyến rũ. Điều gì đã khiến những quý ông nhà Hennessy hấp dẫn phụ nữ ở Truly này đến vậy?”
“Bởi vì họ rất đẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái dưới cạp quần của họ.”
“Ý bà là họ có...” Maddie ngừng lại và giơ một tay lên không như thể là cô không thể tìm được lời lẽ nào diễn tả. Tất nhiên là cô có thể. Cái từ cô vẫn ưa thích vụt qua trong đầu cô, nhưng vì một số lý do mà cô không thể nói những lời đó trước mặt một số bà già.
“Bọn họ đúng là may mắn.” Harriet nói thêm. Sau đó, trong suốt một tiếng tiếp theo, bà bắt đầu kể cho Maddie câu chuyện tình dài và lẫy lừng của bà với Galvin Hennessy. Rõ ràng Harriet cũng từng là một trong số những cô gái đó. Mặc dù bà ta giờ đã quá tuổi chín mươi và trông không khác gì một quả nho khô, chỉ khác là có gắn thêm Harriet Landers cũng thuộc dạng phụ nữ thích kể chuyện giường chiếu của mình ột người hoàn toàn xa lạ.
Và Maddie, may mắn đã ghi được toàn bộ trong cuốn băng của mình.
Tối thứ Tư, quán bar Hennessy’s đang có chương trình Hump Night. Nhằm khuyến khích mọi người trong thị trấn vượt qua giai đoạn làm việc căng thẳng nhất trong tuần, quán bar giảm giá thức uống năm mươi phần trăm và khuyến mãi tới bảy giờ tối. Sau bảy giờ chỉ còn vài người ở lại, nhưng hầu hết họ đều trả tiền đầy đủ cho bữa bù khú của mình. Galvin Hennessy là người chủ trương những đám Hump Night như thế này, và thông lệ này đã được các thế hệ tiếp theo phát huy.
Có những người đã sợ rằng buổi Hump Night tối thứ Tư sẽ biến mất khi Mick tiếp quản quán bar. Mick đã dẹp cái trò ném quần ném áo ở Mort’s. Nhưng sau hai năm vẫn có bia khuyến mãi, vẫn có đồ uống rẻ tiền. Truly mới thở phào nhẹ nhõm rằng truyền thống đó vẫn còn được giữ lại.
Mick đứng ở tít cuối quầy bar, một chân làm trụ, chiếc gậy đánh bi-a trong tay còn Steve Sastle đang bò người trên bàn để chọc bóng. Steve cao hơn Mick một chút và mặc một cái áo phông màu xanh da trời nhạt với dòng chữ: CÁC QUÝ CÔ CHÚ Ý: TÔI YÊU SÁCH VỞ chạy dài trên ngực áo. Mick quen Steve khi còn đi học lái máy bay. Hồi đó, Steve có mái tóc vàng rực rỡ. Còn bây giờ đầu anh ta hói bóng lên như những quả bi-a mà anh ta vừa chọc xuống lỗ.