Chương 19: Chương 19 + 20

Chương 19 Ando đi cạnh Nemoto trong hành lang mờ tối của trường y. Ando mặc chiếc áo blu không cài cúc, đuôi hất ra phía sau, tay giữ chặt chiếc đĩa trong túi áo jacket. Cả Myashita và Nemoto đều không hỏi anh về chiếc đĩa. Ando không có ý giấu giếm gì. Myashita mà hỏi, anh sẽ trả lời thành thật. Nếu họ biết chiếc đĩa có thể chứa chìa khóa của toàn bộ bí ẩn, chắc chắn bây giờ hai người đó đang bám riết anh. Tất nhiên Ando vẫn chưa nhìn thấy những gì có trong đĩa. Luôn tồn tại khả năng chiếc đĩa chứa cái gì đó hoàn toàn khác. Anh hoàn toàn không biết gì cho đến khi xem được nó trên màn hình. Dù vậy, anh cảm thấy nó bình thường trong tay mình: chiếc đĩa ấm nóng trong túi áo anh. Nó ấm gần với nhiệt độ cơ thể. Khi chạm vào chiếc đĩa, dường như anh biết rằng nó chứa những con chữ sống.Nemoto mở cửa phòng xét nghiệm khoa Sinh hóa. Ando lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo, chuyển nó sang tay trái, còn tay phải dùng để giữ cho cửa mở. “Này, Ueda.” Nemoto ra hiệu cho người thanh niên gầy còm đang ngồi trong góc phòng.“Vâng?” Ueda xoay ghế về phía Nemoto, nhưng không đứng dậy. Nemoto tiến lại gần, mỉm cười, và đặt tay lên vai Ueda. “Máy xử lý văn bản của cậu có bận dùng gì bây giờ không?” “Không, không cần lắm.” “Tuyệt. Cậu có phiền nếu bác sĩ Ando đây mượn nó một lúc được không?”Ueda ngước nhìn Ando và cúi đầu. “Xin chào.” “Xin lỗi về chuyện này. Tôi có một chiếc đĩa cần phải mở, và nó không tương thích với máy của tôi.” Ando đến cạnh Nemoto, giơ chiếc đĩa lên. “Anh cứ dùng đi,” Ueda nói, lấy chiếc máy xử lý văn bản nằm ở sàn nhà gần chân anh ta đặt nó lên bàn. “Cậu có phiền không nếu tôi kiểm tra nó ngay tại đây, chỉ để chắc chắn thôi?” “Không sao đâu.” Anh mở nắp máy xử lý văn bản và bật lên. Ngay sau đó menu chính xuất hiện trên màn hình. Trong số các tùy chọn được hiển thị, Ando chọn DOCUMENTS, rồi cho đĩa vào. Màn hình tiếp theo có hai tùy chọn. NEW DOCUMENT và OPEN DOCUMENT. Ando di chuyển con trỏ đến tùy chọn thứ hai và rồi nhấn tiếp. Với một tiếng kêu ro ro, máy bắt đầu đọc chiếc đĩa. Cuối cùng, tên của các file lưu trong đĩa xuất hiện trên màn hình. RING 9 1990/10/21 RING 8 1990/10/20RING 7 1990/10/19 RING 6 1990/10/17 RING 5 1990/10/15 RING 4 1990/10/12 RING 3 1990/10/07 RING 2 1990/10/04 RING 1 1990/10/02 Ando đọc các tên phai như mê sảng. “Ring, ring, ring, ring...” Ring! Cái quái gì thế này? Đúng từ mà anh tìm được khi giải mật mã lòi ra từ thi thể Ryuji. “Anh có sao không?” Nemoto nói, vẻ lo lắng. Anh ta nhìn vào vẻ mặt đột nhiên sửng sốt của Ando. Ando khó khăn lắm mới gật đầu được. Không thể nào có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế. Asakawa đã viết một phóng sự chi tiết về toàn bộ chuỗi sự kiện lạ, lưu nó lại thành chín phần, đặt nhan đề là Ring. Và rồi chính cái nhan đề đó lại lòi ra từ bụng Ryuji. Giải thích kiểu này thế nào đây? Không thể nào như thế. Ando rơi vào trạng thái đờ đẫn. Thi thể của Ryuji đã hoàn toàn trống rỗng; anh ta giờ giống như một người bằng thiếc rồi. Vậy mà mình đang nói rằng anh ta gửi ình một thông điệp từ ổ bụng của anh ta? Rằng anh ta đang cố nói với mình về sự tồn tại của những file này? Ando mường tượng lại khuôn mặt Ryuji ngay sau ca mổ pháp y. Khuôn mặt vuông chữ điền của anh ta đang mỉm cười. Ando đã nghĩ, ngay trong giây phút đó anh ta đã bắt đầu cười chế nhạo anh, vẫn trần truồng trên bàn mỗ, xương hàm rung lên. Từ trong sâu thẳm, Ando có thể cảm thấy câu chuyện kỳ dị của Yoshino bắt đầu gây cảm giác có thực. Có lẽ nó hoàn toàn là thực. Có lẽ thực sự tồn tại một cuốn băng sẽ giết chết anh bảy ngày sau khi anh xem nó.

Chương 20 Chiếc máy xử lý văn bản kêu ro ro không ngớt trong khi chiếc máy in in ra hết trang này đến trang khác. Ando kéo mạnh từng trang giấy ra khỏi máy in khi nó trườn ra và đọc thật nhanh.Mỗi trang để cách dòng đơn, nhưng Ando vẫn có thể đọc nhanh hơn tốc độ máy in in ra. Vì muốn có một bản in, nên anh đã quyết định in ra toàn bộ thay vì đọc trên màn hình. Giờ thì anh đâm nản khi mất hai đến ba phút mới in được một trang. Cuối cùng anh đành mượn chiếc máy của Ueda về nhà. Kiểm tra sơ qua cho thấy toàn bộ phóng sự lên đến gần một trăm trang, nhiều hơn mức hợp lý mà anh có thể in ra ở phòng xét nghiệm. Anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thức khuya ở nhà. Giờ mới đến cuối trang hai mốt của bản thảo, anh vừa đọc vừa tranh thủ ăn bữa tối mua ở một cửa hàng tạp phẩm trên đường về nhà. Cho đến lúc này, những gì anh đọc đúng y như Yoshino đã kể cho anh tuần trước đó. Nhưng nó khác với những gì Yoghino đã kể anh nghe trong quán cà phê ở chỗ, có thời gian và địa điểm cụ thể. Do đó nó thuyết phục hơn rất nhiều. Lối viết phóng sự - không hoa mỹ - cũng khiến bài viết càng đáng tin cậy hơn. Torng khi điều tra bốn cái chết đồng thời do đau tim của bốn thanh niên ở Tokyo và tỉnh Kanagawa vào tối mùng 5 tháng Chín, Asakawa đã đi đến ý tưởng cho rằng thủ phạm là một loại virus. Nói theo khoa học, đó là một kết luận hiển nhiên. Vì các ca mổ tử thi đã phát hiện ra một loại virus gần giống như virus đậu mùa, và linh cảm của Asakawa đã đúng. Theo phỏng đoán của Asakawa, do bốn người chết cùng một thời điểm, nên họ chắc phải nhiễm cùng một loại virus ở cùng một nơi. Anh ta nhận ra rằng mấu chốt cho toàn bộ vụ việc là phải tìm ra nơi họ phơi nhiễm với virus, nghĩa là xác định con đường lây truyền. Asakawa đã thành công trong việc tìm ra thời gian và địa điểm mà bốn người này ở cùng nhau: ngày 29 tháng Tám, đúng một tuần trước khi họ chết, tại Pacific Land, Nam Hakone, trong một căn nhà gỗ cho thuê. Villa Log, Cabin số B-4.Trang tiếp theo, trang hai hai, bắt đầu với việc Kazuyuki Asakawa tự tìm đến tận ngôi nhà gỗ này. Anh ta bắt tàu tốc hành đến Atami, rồi thuê một chiếc xe đi theo đường Atami-Kannami đến khu nghỉ mát cao nguyên. Trời mưa, bóng đêm hạn chế tầm nhìn, và con đường miền núi rất khủng khiếp. Anh ta đặt thuê nhà B-4 vào buổi trưa, nhưng mãi đến tận quá tám giờ tối mới làm thủ tục nhận phòng. Vậy đây là nơi bốn thanh niên đã ở qua đêm: ý nghĩ đó khiến Asakawa giật mình sợ hãi. Đúng một tuần sau khi ở trong ngôi nhà này, họ đã chết. Anh ta biết chính bàn tay ma quái kia cũng sẽ chạm vào mình. Nhưng anh ta không vượt qua được tính tò mò của một nhà báo nên cuối cùng đã lục lọi khắp ngôi nhà. Từ những gì các thanh niên kia viết trong một cuốn sổ tay để lại trong căn nhà, Asakawa xác định rằng tối hôm đó họ đã xem một cuốn băng video, nên anh ta đã đến phòng quản lý để tìm cuốn băng đó. Anh ta tìm thấy một cuốn băng không có nhãn, không có vỏ, nằm ở đáy tủ. Đây liệu có phải là cái mà anh ta đang tìm? Được sự cho phép của người quản lý, anh ta đưa cuốn băng trở lại nàh B-4, rồi, không còn cách nào khác, để biết điều gì có trong cuốn băng, anh ta đã đưa nó vào đầu máy VCR đặt trong phòng khách và xem một mạch từ đầu đến cuối. Lúc đầu, màn hình tối đen, Asakawa mô tả cảnh mở đầu thế này:Từ giữa màn hình đen, có một điểm sáng bắt đầu nhấp nháy. Nó lớn dần lên, lắc lư sang trái và sang phải, cuối cùng dừng lại phía bên trái. Rồi nó tỏa ra các nhánh, trở thành những đường sáng hỗn độn, trườn bò như những con sâu... Ando ngước nhìn lên trang sách. Dựa trên những gì đang đọc, anh có thể hình dung một cách khá rõ ràng hình ảnh có trên màn hình. Khi đọc đoạn mô tả mở đầu của Asakawa, một hình ảnh nhảy vào trong đầu anh như thể anh đã nhìn thấy nó đâu đó trước đây. Một con đom đóm bay trên một màn hình đen, lớn dần lên... rồi một điểm sáng lan rộng ra giống như những sợi của chiếc chổi quét sơn. Đó là một cảnh ngắn ngủi, nhưng đúng là cảnh mà anh nhớ là đã xem rồi, và rất gần đây. Ando mất không nhiều thời gian để nhớ ra. Ấy là khi anh ở trong căn hộ của Mai, cố tìm dấu vết của cô. Anh thấy một cuốn băng nằm trong đầu máy VCR, rồi anh nhấn nút play. Cuốn băng có nhan đề Frank Sinatra, Liza Minnelli, v.v..., ghi trên nhãn bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Vài giây đầu tiên của cuốn băng phù hợp với mô tả này một cách hoàn hảo. Nhưng trong cuốn băng ở nhà Mai, cảnh này chỉ kéo dài vài giây trước khi màn hình đột nhiên trở nên sáng hơn. Trong nỗ lực rõ ràng là nhằm xóa đi những gì có trong cuốn băng, Mai đã ghi lại các chương trình buổi sáng, chương trình phát lại vở kịch mê-lô về một samurai, bất cứ cái gì, cho đến khi cuốn băng chạy hết. Ngay lập tức Ando hiểu ra điều này có nghĩa là gì. Bằng cách nào đó, có thể là thông qua Ryuji, Mai đã được cuốn băng gây rắc rối kia và xem nó tại căn hộ của cô. Rồi khi xem xong, cô đã xóa bất cứ thứ gì chứa trong băng. Hẳn cô phải có lý do để xóa. Nhưng cô đã không thể xóa đoạn mở đầu, nên hình ảnh của vài giây đầu tiên vẫn còn lại, ẩn náu. Có phải thế nghĩa là cuốn băng Asakawa tìm thấy ở Villa Log Cabin đã bằng cách nào đấy tự tìm đường đến tay Mai? Anh cố gắng sắp xếp ý nghĩ. Không, không thể thế được. Cuốn băng Asakawa tìm thấy và cuốn băng Mai có rõ ràng là hai cuốn băng khác nhau. Theo bài phóng sự, cuốn băng ở trong ngôi nhà gỗ không có nhãn. Nhưng cuốn băng trong đầu máy VCR của Mai có nhan đề được viết bằng bút mực dạ đen. Điều đó có nghĩa nó là một bản sao. Cuốn băng ở ngôi nhà gỗ là bản gốc, và cuốn băng ở nhà Mai là bản sao. Vậy là cuốn băng đã được sao chép, ngụy trang, chuyển đi – một chuỗi thay đổi làm chóng mặt. Trong đầu Ando, cuốn băng, đang nằm tại một điểm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh, bắt đầu giống như một loại virus. Vậy sự biến mất của Mai có phải là kết quả của việc cô đã xem cuốn băng? Khả năng này khiến anh lo lắng. Từ lúc đó cô không trở về phòng. Cô không đến trường, thậm chí còn không gọi điện ẹ. Mặt khác, anh chưa nghe tin gì về việc người ta tìm thấy một phụ nữ trẻ chết vì những nguyên nhân không giải thích được. Anh để cho trí óc nghĩ lan man một lúc, trong khi cân nhắc mọi tình huống có thể xảy đến với cô. Có lẽ cô đã chết đơn độc ở một nơi không ai biết đến. Ý nghĩ ấy là anh đau nhói – cô chỉ mới hai mươi hai tuổi. Anh đã cảm thấy những xao động đầu tiên vì phải lòng cô, và việc này khiến cho sự việc trở nên khó chịu đựng hơn. Cuối cùng máy in cũng in xong một trang nữa, với một âm thanh làm Ando thoát ra khỏi dòng suy tưởng. Bất luận thế nào, thì giờ không phải lúc chuốc thêm rắc rối. Hiện tại, tốt hơn là anh nên tìm xem trong cuốn băng đó có gì trước tiên.