Chương 31: Câu chuyện thứ tư (14)

Từ trên cao nơi chúng tôi đứng hướng tầm mắt ra thì trông thấy một con đường, cứ men theo lối đó mà đi thì tới chính giữa làng.

Ở khoảnh đất trống giữa thôn là một con đường hình chữ thập (+), hai đường giao nhau một rộng một hẹp, phân sơn thôn thành bốn phần, con đường mà chúng tôi đi tới chính là con đường hẹp trong số đó.

Sơn thôn tĩnh lặng không một bóng người, ngay đến tiếng gà qué chó mèo cũng không nghe thấy, xem ra nơi đây vốn đã không tồn tại bất kì sinh vật sống nào.

Chúng tôi tùy tiện đi đến đẩy cửa vài ngôi nhà, cửa không chốt khóa, trong nhà cũng không sót lại dấu tích nào của con người cả, từ lớp mạng nhện giăng phủ trong phòng thì có thể đoán ít nhất mười mấy năm nay không có người sống ở đây. Tất cả vật dụng bên trong đều không khác gì so với những gia trạch của người dân thôn quê bình thường khác, đồ dùng gia đình rất bình dị, đơn giản, không có thứ gì gọi là xa hoa. Một vài chỗ khác vẫn lưu lại dấu tích của cuộc sống sinh hoạt, có nhà thì thậm chí trong nồi vẫn còn rau đang được nấu, đương nhiên những đồ ăn này đã bị thối rữa từ lâu.

Chỉ là không biết người và gia xúc đi đâu cả rồi, chẳng lẽ chỉ trong một đêm, hơn trăm hộ dân ở đây đều bốc hơi toàn bộ như vậy sao?

Hay là đột nhiên xảy ra tai vạ khôn lường nào đó nên thôn dân phải bỏ đi tránh nạn không kịp chuẩn bị gì chăng ?

Ngay đến người thông minh, tinh ý như A Hào cũng nhăn mày suy ngẫm mà không hiểu, chuyện này đã vượt ra khỏi nhận thức thông thường của con người. Trong khi đó mấy người chúng tôi không ai có sẵn năng lực suy luận siêu nhiên.

Chúng tôi đội mưa đi theo con đường rộng rãi nhất trong thôn thì tới một cụm kiến trúc tận cuối thôn, chỗ này lại không giống nhà ở của những thôn dân khác.

Ở chính giữa là sườn núi cao ngang với hai tầng lầu, phía trước là mười mấy bia đá và tượng người đá dựng thẳng sừng sững, nổi bật nhất là một tấm bia đá lớn cao gần ba mét, người đứng dưới ngước lên nhìn sẽ có cảm giác như bị uy hiếp.

Chúng tôi tiến lại gần tỉ mỷ quan sát văn tự trên bia đá, phát hiện chữ khắc trên đó đã bị mài mòn khó có thể nhận biết được mặt chữ. Duy chỉ có góc dưới cùng bên trái là có vài chữ chưa bị xóa bút tích, trên đó có khắc : “ Đường Trinh Quan hai mươi mốt năm”.

Xú Ngư hỏi tôi:

- Sườn núi này sao lại có bia đá nhỉ? Có phải xưa kia đây là chiến trường cổ nên người ta mới cho dựng chúng để tưởng niệm?

Tôi nói:

- Cậu hỏi tớ, tớ biết hỏi ai đây? Mình còn đang mơ hồ chẳng hiểu chuyện gì đây.

A Hào chỉ tay vào sườn núi phía sau bia đá nói:

- Nó không phải là sườn núi, là gò mả đó. Đây chính là ngôi mộ cổ đời Đường chúng ta được nghe kể, điều tớ vốn mong chờ chỉ là một sự nhầm lẫn, không ngờ sự phát triển của thời đại ngày nay đã ngày càng gây bất lợi cho chúng ta.

Chúng tôi lấy tay che mưa rơi vào mắt, rồi ngẩng đầu quan sát kỹ gò mả sừng sững to lớn ấy, trong lòng không khỏi sợ hãi như bị thứ gì đó uy hiếp.

Nằm ở mé trái là một ngôi nhà lớn, cửa được khóa chặt, bóng đêm bên trong sâu ngun ngút thăm thẳm như muốn dọa người. Nếu vô ý liếc mắt nhìn vào, sẽ sinh ra một thứ cảm giác bi ai thống khổ, bóng đêm âm u không ranh giới từ tứ phương tám hướng xông thẳng vào đại não.

Chúng tôi không dám quan sát ngôi nhà đó nhiều, bèn xoay người nhìn một tòa kiến trúc khác nằm đối diện, lại là một tiểu lầu hai tầng có kết cấu gỗ ngói, mang dáng vẻ cổ kính xa xưa. Phong cách kiến trúc tuyệt không giống như thời này, trên đỉnh lầu được phủ một lớp ngói lưu ly ( loại ngói thường thấy trong những kiến trúc cung đình, chùa chiền) màu vàng và xanh lợp xen kẽ nhau, bốn góc đều có linh thú để trấn trạch trừ tà. Trước cửa còn có tấm biển, trên đó thảo ba chữ Triện ( chữ viết đời nhà Tần): “Miên Kinh Lầu”, trong lầu ẩn hiện ánh đèn chập chờn như hoàn hôn xế tà.

Từ lúc đặt chân vào ngôi làng này, thì nỗi sợ hãi và căng thẳng luôn trực sẵn trong tâm can Đằng Minh Nguyệt, lúc này cô mới chỉ tay vào Miên Kinh Lầu nói:

- Trông chữ viết thì nơi này giống như tàng thư các vậy, chúng ta vào trong xem có tìm thấy văn kiện thư tịch gì không, biết đâu lại tìm hiểu được hiện giờ chúng ta đang ở đâu, như vậy mới có thể nghĩ cách ứng phó được.

Thật ra, dù cô ấy không nói vậy thì ba chúng tôi cũng có chủ ý đó cả, có điều ba vị trí này có vẻ rất dị thường, cái gò mả siêu lớn kia nào ai muốn vào chứ, còn đại trạch mé trái, đừng nói là vào trong, mà chỉ cần liếc mắt nom một cái thôi cũng đủ nổi da gà rồi, cũng chỉ có cái tiểu lầu trông giống như tàng thư các này thì may ra còn dám đặt chân vào.

Xú Ngư một cước đá tung cánh cửa, lại lăm le khúc côn khua loạn xạ trước cửa, bên trong đầy những bụi bặm, hại chúng tôi ho sặc sụa.

Tôi hỏi:

- Lão Vu, cậu vừa làm cái gì vậy? Có phải vừa nãy ăn no nên muốn vận động cho tiêu cơm không hả?

Xú Ngư đáp:

- Mình xem trong phim ảnh rồi, những nơi như này cứ hễ mở cửa là sẽ có rơi bay ra, quỷ thần nó chứ, ở đây lại chẳng có nửa con, hại mình uổng phí bao nhiêu lực khí.

Trên mái trần của tiểu lầu có một ngọn đèn đang leo lét cháy, không biết nguồn cháy lấy từ đâu, nhìn bề ngoài thì cứ như thể mấy chục năm nay chưa từng bị tắt vậy.

Hai tầng trên dưới toàn là những kệ sách, hai bên thư án có đặt tứ bảo văn phòng (giấy, mực, bút, nghiên), còn có cả một tấm bình phong, mọi người thoáng nhìn hình ảnh phác thảo trên tấm bình phong đó thì tất thảy kinh ngạc, đây rõ ràng là một tấm bản đồ toàn thôn hoàn chỉnh.

A Hào lại lấy bút ra chỉ trỏ vào tấm bản đồ như để nhận diện đường đi, rồi lại phác họa gì đó vào cuốn sổ tay mang theo bên người, đoạn nói:

- Như này vẫn còn hy vọng tìm được đường ra.

Thấy cậu ta đang vẽ bản đồ, tôi với Xú Ngư tranh thủ lục lọi xung quanh, mong tìm được vật gì đó đáng tiền, sau này quay về sẽ bán đứt đi, coi như là phí bù đắp tổn hại tinh thần.

Nhưng ngoại trừ các loại thư tịch cổ ra, thì chẳng có lấy thứ gì giá trị, tôi tiện tay lật giở một cuốn sách, bìa ngoài có viết mấy chữ “ Khu Ma Giáng Qủy Thuật”- Lỗ Đầu Sơn Nhân Thủ Thư”(“Thuật xua đuổi tà ma”- thư tịch viết tay của Người rừng đầu lừa ).

Tôi bật cười ha hả, gọi ba người lại xem, rồi nói:

- Haha…cái tên của tác giả nghe ngộ thật đấy, “đầu lừa”, nhất định tướng mạo sẽ rất khó coi cho mà xem, haha….

A Hào cũng đi lại nói:

- Phải đấy, nếu để tớ chọn giữa đầu lừa và đầu cá, tớ thà chọn đầu cá còn hơn.

Xú Ngư không hay biết A Hào đang châm trọc mình, cũng khoái chí nói:

- Haha, “đầu lừa” mà dám ra khỏi cửa sao? Đúng là một quái thai

Đằng Minh Nguyệt nói:

- Tên sách kỳ lạ thật đó, trên đời này thật sự có người có bản lĩnh trừ tà đuổi ma sao? Chúng ta đọc thử xem, biết đâu lại học được ít bí quyết phòng thân.

Tôi thuận tay lật ngay trang đầu, ở trang này có kẹp một vật đánh dấu trang đọc hình người làm bằng giấy, chừng khoảng ba tấc, được gia công cực kỳ tinh xảo, trên đầu người giấy có đội một mũ sắt, tay cầm một thanh kiếm lớn, tuy chỉ được làm thủ công bằng giấy nhưng vẫn hiện ra thần thái uy phong lẫm liệt.

“Người giấy” dùng để đánh dấu trang đọc được dán trên trang sách, tôi tiện tay xé nó ra vứt xuống dưới đất.

Trang này có viết: “Rắc gạo sống có thể xua đuổi vong hồn, lấy gạo rắc vãi vòng quanh có thể tóm được yêu ma”

Tôi nói:

- Chiêu này đơn giản, nhà bếp của tiệm thuốc có gạo sống, chỉ là không biết có tiện dụng hay không thôi.

Đoạn lại đọc tiếp: “Lật đọc sách này, tuyệt đối không được để “người giấy” đánh dấu trang đọc tiếp đất, không thì….”

Đang đọc đến đây, bỗng Đằng Minh Nguyệt chỉ tay vào bức tường đối diện với chúng tôi nói:

- Chúng ta chỉ có bốn người, sau trên tường lại có năm cái bóng vậy?