Chương 5: Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới - Chương 1-5

Bố tôi, một người biết điều, bảo Carlton nên lau nó đi. Mẹ tôi thấy hành động đó là không đủ. Bà muốn Carlton ngay từ đầu đã không làm thế. “Em đã không đòi hỏi gì nhiều,” bà nói. “Em không hỏi xem nó đi đâu. Em không hỏi tại sao cảnh sát lại đột nhiên để ý đến ngôi nhà của chúng ta. Em chỉ yêu cầu nó đừng làm dây bùn lên sàn nhà. Chỉ thế thôi.” Bà gườm gườm nhìn chúng tôi, ánh mắt giận dữ đầy phẫn nộ.

“Con nên lau nó ngay đi,” bố tôi bảo Carlton.

“Và chỉ thế thôi sao?” Mẹ tôi nói. “Nó lau dọn chỗ bẩn đó, rồi được tha thứ à?”

“Thế em muốn nó làm gì nào? Liếm chỗ bẩn đó hả?”

“Em muốn nó phải biết để ý,” bà nói, bất lực quay sang tôi. “Đó là những gì em muốn.”

Tôi nhún vai, bối rối. Tôi thông cảm với mẹ tôi, nhưng không đứng về phía bà.

“Được rồi,” bà nói. “Từ nay tôi sẽ không bận tâm đến việc lau dọn nhà cửa nữa. Tôi sẽ để lũ đàn ông các người làm việc đó. Tôi sẽ ngồi xem ti vi và quăng vỏ kẹo xuống sàn nhà.”

Bà đùng đùng bỏ đi, lướt qua không khí như một lưỡi dao. Trên đường ra khỏi phòng, bà cầm cái lọ đựng bút chì lên, ngắm nghía nó rồi ném hết đống bút chì lên sàn. Chúng rơi xuống như những quẻ bói, theo từng cặp và từng mẫu chéo nhau.

Bố tôi theo sau, gọi tên bà. Tên bà là Isabel. Chúng tôi có thể nghe thấy họ đi về phía bên kia căn nhà, bố tôi gọi: “Isabel, Isabel, Isabel,” trong khi mẹ tôi, thỏa mãn với hình ảnh của những cái bút chì quăng thêm vài thứ khác xuống sàn nhà.

“Em hi vọng mẹ sẽ không đập ti vi,” tôi nói.

“Mẹ sẽ làm những gì mẹ cần làm,” Carlton bảo tôi.

“Em ghét mẹ,” tôi nói. Tôi không chắc mình có thật sự ghét mẹ không. Tôi chỉ muốn thử xem âm thanh của ba từ đó được phát ra như thế nào, để xem liệu có đúng là thế không.

“Mẹ liều lĩnh hơn bất cứ ai trong nhà mình đấy, Frisco ạ,” anh nói. “Mày nên cẩn thận khi nói gì đó về mẹ.”

Tôi im lặng. Rồi tôi nhanh chóng nhổm dậy và bắt đầu thu nhặt bút chì, vì tôi thích làm thế hơn là nằm một chỗ, cố gắng theo kịp sự thay đổi của lòng trung thành. Carlton đi lấy một miếng bọt biển và kì cọ những vết bùn.

“Mày làm bẩn thảm thì mày phải lau nó,” anh nói. “Đơn giản thế thôi.”

Thời điểm dành cho tất cả những câu hỏi của tôi về tình yêu đã trôi qua, và tôi không ngớ ngẩn đến mức cố khơi lại chủ đề ấy. Tôi biết rồi thời điểm đó sẽ lại xuất hiện. Tôi buộc bút chì thành một bó gọn gàng. Mẹ tôi vẫn đang nổi cơn thịnh nộ khắp nhà.

Sau đó, khi bà đã ném chán đồ đạc và ba người chúng tôi đều nhặt lên hết, tôi nằm trên giường ngẫm nghĩ. Carlton đang nói chuyện điện thoại với bạn gái, thì thà thì thào. Mẹ tôi, đã bình tĩnh lại nhưng vẫn còn nguy hiểm, đang nấu bữa tối. Bà hát trong khi nấu ăn, vài điệu nhạc buồn tẻ hồi những năm bốn mươi chắc đã phổ biến ở khắp các phòng trà khi chiếc máy bay chở người chồng đầu tiên của bà rơi xuống Thái Bình Dương. Bố tôi thổi kèn clarinet dưới tầng hầm. Đó là nơi ông đến để luyện tập, giữa đống đồ nghề làm mộc của mình, với những cái búa và dùi được treo gọn gàng và hắt ra những cái bóng quá cỡ nhờ ánh sáng phát ra từ chiếc bóng đèn duy nhất. Nếu tôi áp tai xuống sàn, tôi có thể nghe thấy tiếng ông thổi kèn, một âm thanh trầm trầm kéo dài như tiếng rên của mèo đực. Tôi thấy thoải mái kì lạ khi áp tai lên thảm và nghe tiếng nhạc của bố tôi len lỏi qua những tấm ván lát sàn. Nằm áp tai trên sàn, tôi hòa theo với tiếng harmonica của mình.

Mùa xuân đó, bố mẹ tôi tổ chức một bữa tiệc để chào mừng mặt trời quay trở lại. Chúng tôi đã trải qua một mùa đông dài khắc nghiệt và giờ đây những bông cúc dại đầu tiên đang nhú lên trên những thảm cỏ và giữa những ngôi mộ.

Những bữa tiệc của bố mẹ tôi là những dịp trang trọng. Bạn bè họ, tất cả đều là giáo viên trung học, mang đến những bình rượu và những cây guitar. Họ là những người tân tiến ở Ohio. Dù họ đang có việc làm và trả tiền nợ thế chấp đúng hạn, nhưng họ vẫn coi mình là những con người hoạt động độc lập trong một nhiệm vụ gián điệp. Họ đồng ý đóng giả các giáo viên cho đến khi nào họ bắt tay vào việc viết tiểu thuyết, hoàn thành những bài luận văn, hoặc tiết kiệm đủ tiền để được tự do.

Carlton và tôi là những người phục vụ. Chúng tôi cầm áo khoác cho họ, mang đồ uống đến. Chúng tôi vẫn làm thế tại mỗi buổi tiệc từ khi chúng tôi còn nhỏ, với vai trò của một người đồng sự, do sự phát triển sớm của chúng tôi. Chúng tôi làm việc này rất thành thạo. Một phụ nữ tô son đẫy đà, người đã cống hiến tuổi xuân của mình cho môn Toán lớp chín, đã gọi tôi là Chàng trai lý tưởng. Một trợ lý phó hiệu trưởng đội chiếc mũ lông Nga hỏi chúng tôi liệu chúng tôi định bầu cho Đảng Dân chủ hay Đảng Xã hội. Do đã lén hớp mấy ngụm rượu nên tôi cũng ngà ngà say.

Tuy nhiên, độ ổn định của buổi tối đã bị phá vỡ khi bữa tiệc mới đi được một nửa, vì vài người bạn của Carlton. Họ gõ cửa và tôi đến mở, hồi hộp như một chuyên gia cải trang, chờ xem ai sẽ bước lên tiếp theo và tin sái cổ rằng tôi là một đứa trẻ chín tuổi ngoan ngoãn, tỉnh táo. Tôi cứ ngỡ sẽ bắt gặp những anh chàng còn non nớt, nhưng hóa ra tôi chỉ thấy một đám thanh niên ngoài vòng pháp luật, đi giày khủng bố và đầu tóc rối bù. Bạn gái của Carlton đứng đằng trước, trong một bộ đồ gần như được làm hoàn toàn bằng lụa.

“Chào, Bobby,” chị tự tin nói. Chị là người New York và khôn ngoan hơn hẳn người địa phương.

“Chào,” tôi nói. Tôi để họ vào hết dù có một sự thôi thúc trái ngược là khóa cửa lại và gọi cho cảnh sát. Có ba nữ và bốn nam. Họ đi qua tôi trong quầng khói ma túy và đưa ra những lời chào ranh mãnh.

Những gì họ làm là xâm nhập vào buổi tiệc. Carlton đang đứng ở phía bên kia căn phòng huyên náo, chọn đĩa nhạc tiếp theo, và bạn gái anh rẽ đám đông đi thẳng về phía anh. Chị có vóc người và dáng đi lả lướt uyển chuyển mà vài người cho là đẹp. Chị đi qua căn phòng đó như thể chị được cử đến để dạy cho toàn bữa tiệc một bài học.

Khuôn mặt Carlton gợi cho tôi biết rằng chuyện này đã được tính toán trước. Mẹ tôi hỏi xem chuyện gì đang diễn ra. Bà đang mặc cái váy dài hở vai màu đỏ sẫm. Khi bà chưng diện, bạn có thể thấy bà đẹp như thế nào, hay đúng hơn là bà đã từng đẹp đến mức nào. Carlton được thừa hưởng vẻ đẹp đó của bà. Còn tôi lại mang khuôn mặt của bố tôi.

Carlton nói qua loa gì đó. Dù mẹ tôi không đồng tình lắm, nhưng những kẻ xâm nhập vẫn được phép ở lại. Một người trong số họ, một anh chàng có kiểu tóc và mặc đồ da rất giống Eddie Haskell[10], bảo bà rằng trông bà rất đẹp. Bà rất vui khi nghe thấy thế.

[10] Tên một nhân vật trong phim Leave it to Beaver, một cậu bé mồm mép.

Vì vậy những kẻ ngoài vòng pháp luật, được gia chủ cho phép, bắt đầu trà trộn vào. Tôi đến bên Carlton, phía không có bạn gái anh. Tôi muốn nói điều gì đó châm biếm và láu lỉnh, điều gì đó sẽ tách tôi và Carlton ra khỏi những người khác trong phòng. Tôi có thể cảm thấy lời bình luận đó hình thành trong đầu mình, nhưng vì chỉ là một đứa trẻ chín tuổi ngà ngà say, tôi không thể thốt ra được. Điều mà tôi nói lại là: “Ôi, chết tiệt.”

Bạn gái Carlton cười nhạo tôi. Chị coi việc một cậu bé nói từ “chết tiệt” thật buồn cười. Tôi muốn bảo chị rằng tôi đã phát hiện ra điều gì ở chị, nhưng tôi mới chín tuổi và đã uống ba phần tư ly cocktail Tom Collins. Ngay cả khi không say, tôi cũng chỉ có thể mơ tưởng đến tài ăn nói sắc sảo.

“Chờ chút, Frisco,” Carlton bảo tôi. “Nó sẽ biến thành một bữa tiệc thực sự cho mà xem.”

Qua ánh sáng ngời lên trong mắt anh, tôi có thể thấy được chuyện gì đang diễn ra. Anh đã sắp xếp một cuộc xem mặt giữa bạn bè của bố mẹ tôi và các bạn của anh ấy. Đó là một bước tiến của Woodstock – anh đang mưu đồ một tương lai mà ở đó người lớn và thanh niên bằng vai phải lứa với nhau. Tôi đồng ý chờ và đi vào bếp, hi vọng có thể lén nhấp mấy ngụm gin.

Tôi thấy bố tôi đang dựa vào tủ lạnh. Một hàng nam châm hình bươm bướm dập dờn quanh đầu ông. “Con có thích bữa tiệc này không?” Ông hỏi, vuốt ve chòm râu dê. Ông vẫn quen với việc mình là một người đàn ông để râu.

“Có ạ.”

“Bố cũng thế,” ông buồn bã nói. Ông không bao giờ muốn làm giáo viên dạy nhạc ở trường trung học. Vấn đề tiền bạc đã buộc ông phải làm thế.

“Con nghĩ loại nhạc này thế nào?” Ông hỏi. Carlton đã đặt đĩa của Stone[11] vào máy quay đĩa. Mick Jagger[12]đang hát 19th nervous breakdown. Bố tôi dang rộng đôi tay, như thể bao gồm cả căn phòng, bữa tiệc và toàn bộ ngôi nhà – bất cứ thứ gì mà âm nhạc lan tỏa đến.

[11] Tên gọi tắt của The Rolling Stones, ban nhạc rock nổi tiếng của Anh thành lập năm 1962.

[12] Mick Jagger (sinh ngày 26 tháng 7 năm 1943): ca sĩ chính của the Rolling Stones.

“Con thích nó,” tôi nói.

“Bố cũng thế.” Ông lấy ngón tay khuấy khuấy ly rượu rồi đưa lên miệng mút.

“Con rất thích nó,” tôi nói, to hơn mức bình thường. Ở bố tôi có vẻ gì đó khiến tôi phải cao giọng. Tôi muốn túm lấy một nắm âm nhạc trong không khí và nhét vào mồm mình.

“Bố không chắc mình có thể nói là rất thích nó không,” ông nói. “Bố không dám chắc. Bố chỉ muốn nói là bố thích cái hướng đi của nó. Bố muốn nói rằng nếu âm nhạc phát triển theo hướng này, bố sẽ không cản trở nó.”

“Vâng,” tôi nói. Tôi bồn chồn muốn quay lại bữa tiệc, nhưng không muốn làm tổn thương cảm giác của bố tôi. Nếu ông cảm thấy mình đang bị né tránh, ông có thể đưa ra một loạt những lời biện bạch còn khủng khiếp hơn cả cơn thịnh nộ của mẹ tôi.

“Bố nghĩ có thể bố đã quá khắc nghiệt với học sinh của bố,” bố tôi nói. “Có lẽ qua mùa hè các con có thể dạy bố chút gì đó về loại nhạc mà mọi người đang nghe ngày nay.”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói lớn. Chúng tôi mất một phút mới nói tiếp được.

“Các con vui chứ?” Ông hỏi. “Các con có thích bữa tiệc này không?”

“Chúng con rất vui,” tôi nói.

“Bố nghĩ các con đều vui. Bố cũng thế.”

Lúc đó tôi chỉ còn cách cửa một bước nhảy. Tôi hét tướng lên: “Thôi, tạm biệt bố,” và quay trở lại bữa tiệc.

Chuyện gì đó đã xảy ra khi tôi tạm thời vắng mặt. Bữa tiệc đã bắt đầu sôi nổi. Hãy gọi nó là một biến cố của lịch sử và thời tiết. Bạn bè của Carlton đang cư xử đúng mực, và bạn bè của bố mẹ tôi đã quyết định từ bỏ vài nghi lễ truyền thống với rượu vang và nhạc dân gian của họ, để xem họ có thể học được gì mới. Carlton đang khiêu vũ với vợ của một phó hiệu trưởng. Còn anh bạn Frank của Carlton, với khuôn mặt già trước tuổi và chỉ số IQ dưới mức sáu mươi, thì khiêu vũ với mẹ tôi. Tôi nhận thấy bố tôi đã theo tôi ra khỏi bếp. Tôi mời bà giáo dạy môn Toán có đôi môi màu hoa vân anh nhảy. Bà quá đỗi vui sướng. Bà to lớn và duyên dáng như một cái xe diễu hành, và tôi dễ dàng lèo lái bà vào giữa. Mẹ tôi, người nổi tiếng ở trường vì kỉ luật Sicily, nhảy với vẻ phóng túng khiến tất cả mọi người đều ngạc nhiên. Không ai có thể bàn cãi gì về vẻ đẹp của bà.

Đêm càng lúc càng khuya. Một sự cuồng nhiệt bắt đầu. Carlton đưa thêm nhiều đĩa nhạc mới vào máy quay đĩa – Janis Joplin[13] the Doors[14], the Dead[15]. Tương lai tươi sáng đang trải ra trước mắt mọi người, với vô vàn cơ hội có thêm nhiều đêm nữa y hệt như thế này. Ngay cả bố tôi cũng bị ép phải khiêu vũ, động tác của ông trông như một con chim không biết bay, vỗ vỗ cánh tay và cái bụng phệ. Tuy nhiên, dù gì thì ông cũng đã nhảy. Mẹ tôi tặng cho ông một nụ hôn.

[13] Janis Joplin (1943-1970): nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ, nổi tiếng trong thập niên 1960.

[14] Ban nhạc rock của Mỹ thành lập năm 1965 tại Los Angeles, California.

[15] Tên gọi tắt của Greatful Dead, ban nhạc rock của Mỹ thành lập năm 1965, nổi tiếng với phong cách độc đáo.

Cuối cùng, tôi ngủ gật trên sofa, sảng khoái dưới tác dụng của rượu. Tôi đang mơ thấy mình bay lượn thì mẹ tôi đến và chạm vào tôi. Tôi mỉm cười trước khuôn mặt hoan hỉ đỏ bừng của bà.

“Đã quá giờ ngủ của con rồi đấy,” bà nói, rất dịu dàng. Tôi gật đầu. Tôi không thể chối bỏ sự thật.

Bà vẫn cứ đẩy vai tôi. Phải mất một lúc tôi mới hiểu ra rằng bà thực sự muốn tôi rời khỏi bữa tiệc và đi ngủ.

“Không đâu,” tôi bảo bà.

“Có đấy,” bà cười.

“Không,” tôi thân mật nói, thăm dò. Người mẹ mới mẻ này biết khiêu vũ và tán tỉnh. Ai biết bà còn có thể cho phép những gì?

“Có.” Giọng bà không còn nhẹ nhàng nữa. Bà thực sự nghiêm túc, như lúc bình thường. Tôi đi khỏi đó và lần này không nói năng gì. Tôi vừa tròn chín tuổi và trốn tránh giờ đi ngủ như thể trốn tránh cái chết.

Tôi chạy về phía Carlton để mong được che chở. Anh đang cười với bạn gái, một lọn tóc cong cong ướt đẫm mồ hôi dính trên trán anh. Tôi lao về phía anh, mạnh đến nỗi suýt nữa làm anh ngã nhào.

“Chao ôi, Frisco,” anh nói. Anh xốc nách tôi lên và quay tôi nửa vòng. Mẹ tôi túm lấy gáy tôi theo kiểu nhà nông thứ thiệt, giằng tôi ra khỏi tay anh và đặt tôi xuống.

“Chúc mọi người ngủ ngon đi, Bobby,” bà nói. Rồi bà thêm vào, vì sự có mặt của bạn gái Carlton. “Đáng lẽ nó phải ngủ trừ trước khi bữa tiệc bắt đầu cơ.”

“Không,” tôi hét lên. Tôi vùng vẫy cố thoát ra, tay mẹ tôi kẹp tôi chặt đến nỗi bà có thể làm vỡ được vỏ quả hồ đào.

Bạn gái Carlton hất tóc và nói: “Chúc ngủ ngon, nhóc.” Chị nở một nụ cười đắc thắng. Chị vuốt lại lọn tóc lòa xòa vương trên trán Carlton.

“Không,” tôi lại thét lên. Cái cách chị chạm vào tóc anh ẩn chứa điều gì đó. Mẹ tôi gọi bố tôi đến, ông xốc tôi lên và mang tôi ra khỏi phòng, giữ tôi như thể tôi là một quả bom chưa nổ. Trước khi tôi bị mang đi, mắt tôi bắt gặp mắt Carlton. Anh nhún vai và nói: “Chúc ngủ ngon, nhóc.” Bố tôi đẩy tôi ra, tôi gan lì cưỡng lại. Rồi tôi vùng vằng bỏ đi, tức đến nỗi không khóc nổi, miệng lòng thòng một sợi nước dãi nhơ nhớp như của những đứa trẻ hư.

Sau đó tôi nằm một mình trên chiếc giường chật hẹp, cảm thấy tiếng nhạc ngân nga trong những chiếc lò xo xoắn của tấm đệm. Cuộc sống đang hé mở ngay ngoài kia, trong căn nhà của chúng tôi. Mọi người đang thay đổi. Đến ngày mai, sẽ không còn ai giống hệt như trước nữa. Sao họ nỡ để tôi bỏ lỡ nó? Tôi nghĩ về việc trả đũa bố mẹ tôi, đặc biệt là Carlton. Anh là người có thể cứu tôi lúc đó. Đáng lẽ anh phải đứng về phía tôi. Điều mà tôi không thể tha thứ là cái nhún vai của anh, và ánh mắt bình thản khi nói: “Chúc ngủ ngon, nhóc.” Anh đã gia nhập vào thế giới người lớn. Anh đã biến mình thành lớn hơn, và tạo thêm khoảng cách với tôi. Khi the Doors thình lình chơi bản Strange days, tôi mong sẽ có điều gì đó khủng khiếp xảy ra với anh. Tôi tự nhủ với bản thân mình như thế.

Khoảng nửa đêm, Frank ngốc nghếch tuyên bố anh ta vừa trông thấy một cái đĩa bay lượn lờ phía trên sân sau. Tôi có thể nghe thấy giọng nói trầm trầm thích thú của anh ta lan khắp phòng tôi. Anh ta nói nó như một đám mây rực rỡ lấp lánh. Tôi nghe tiếng một nửa số người trong bữa tiệc chen lấn xô đẩy nhau qua cánh cửa kính trượt. Lúc đó mọi người đều quá cuồng nhiệt đến mức họ tin là sẽ nhìn thấy một chiếc đĩa may thật. Một bữa tiệc náo nhiệt như thế theo logic sẽ thu hút được một niềm hân hoan đáp lại từ phía bên kia những vì sao.

Tôi ra khỏi giường và rón rén đi trên hành lang. Tôi sẽ không để lỡ vị khách ngoài hành tinh nào, bất chấp cái giá là sự phẫn nộ của mẹ tôi hay sự thất vọng của bố tôi. Tuy nhiên, tôi dừng lại phía cuối hành lang, xấu hổ trong bộ đồ pyjama. Nếu thực sự có người ngoài hành tinh, họ sẽ nghĩ tôi là người kém cỏi nhất trong ngôi nhà này. Khi tôi đang do dự không biết có nên quay lại phòng để thay đồ không khi mọi người lục tục trở vào trong nhà, nói rằng họ đã bị đánh lừa bởi sương mù và một chiếc máy bay. Mọi người lại tiếp tục nhảy nhót.

Chắc Carlton đã nhảy qua hàng rào phía sau. Có lẽ anh muốn ở đó một mình, đơn độc, phòng khi họ quyết định mang ai đó theo họ. Một vài đêm sau đó, tôi thường đi ra ngoài và đứng tại nơi mà có lẽ anh đã đứng. Phía bên kia con mương, nước sông đang dâng lên vì tuyết tan, nghĩa địa lập lòe như một thành phố chết. Mặt trăng tròn vành vạnh. Tôi đi loanh quanh như Carlton có lẽ đã từng, bị thôi miên bởi thứ ánh sáng bàng bạc trên những tấm bia mộ, bức tượng thiên thần màu trắng đang giơ tay lên phía bên kia con sông.

Theo bố mẹ tôi, điều khó hiểu là tại sao anh lại chạy trở vào nhà nhanh hết sức như vậy. Có lẽ thứ gì đó ở nghĩa địa đã làm anh hoảng sợ, chắc là anh cần phải thoát khỏi bùa phép của nó. Nhưng tôi nghĩ có lẽ đúng hơn là sau khi lấy lại được bình tĩnh, anh đã nôn nóng quay lại với mọi người và âm nhạc, với sự sôi động, náo nhiệt của cuộc sống đang tiếp diễn.

Ai đó đã đóng cánh cửa kính trượt. Bạn gái của Carlton thờ ơ nhìn ra ngoài, tiếp xúc với bóng phản chiếu của chính mình. Tôi cũng nhìn. Carlton đang chạy về phía ngôi nhà. Tôi do dự. Rồi tôi nhận thấy anh có thể sẽ bị vỡ mũi. Nó sẽ là một trò hay với anh. Tôi cứ để anh chạy tới. Bạn gái anh thấy anh qua hình ảnh phản chiếu của chị, bắt đầu thét lên lời cảnh báo ngay khi Carlton va vào kính.

Đó là một tiếng nổ. Những mảnh kính lấp lánh văng khắp phòng. Tôi nghĩ nó khiến anh thấy ngạc nhiên hơn là đau đớn, như thể lao mình từ trên cao xuống nước vậy. Anh đứng chớp chớp mắt một lúc. Bữa tiệc ngừng hẳn lại, ai cũng nhìn chằm chằm, xác định xem chuyện gì đang xảy ra. Bob Dylan đang hát Just like a woman. Carlton tò mò giơ tay lên để nhổ một mảnh kính vỡ đang găm vào cổ, và lúc đó máu bắt đầu tứa ra. Nó tuôn xối xả. Mẹ tôi hét lên. Carton bước về phía vòng tay của bạn gái anh và hai người họ cùng ngã xuống. Mẹ tôi lao tới, phủ phục lên hai người. Mọi người hét lên những kinh nghiệm xử lý tai nạn của họ. Đừng nhấc thằng bé lên. Hãy gọi xe cứu thương. Tôi đứng ở hành lang quan sát. Máu của Carlton tứa ra, thấm xuống thảm, bắn lên quần áo của mọi người. Bố mẹ tôi đều cố dùng tay bịt vết thương của anh, nhưng máu vẫn rỉ ra qua các kẽ tay. Carlton trông ngơ ngác hơn bao giờ hết, như thể anh không theo kịp diễn biến của sự việc này. “Sẽ ổn thôi,” bố tôi bảo anh, cố cầm máu cho anh. “Sẽ ổn thôi, đừng cử động, sẽ ổn thôi.” Carlton gật đầu và nắm lấy tay bố tôi. Mắt anh lóe lên một tia kinh ngạc. Mẹ tôi hét lên: “Không ai làm gì sao?” Máu chảy ra từ người Carlton trở nên thẫm hơn, gần như đen sì. Tôi đứng nhìn. Bố tôi cố giữ lấy cổ Carlton trong khi anh vẫn cố nắm tay ông. Tóc mẹ tôi nhuốm máu. Máu chảy xuống mặt bà. Bạn gái Carlton ôm anh vào lòng, vuốt ve tóc anh, thì thầm vào tai anh.

Anh mất khi xe cấp cứu vừa tới. Bạn có thể thấy sự sống cạn kiệt dần trong anh. Khi khuôn mặt anh ngày càng nhợt nhạt, mẹ tôi đã khóc ầm lên. Một phần linh hồn bà bay đi, than khóc khắp căn nhà, nơi nó sẽ mãi mãi thét gào và cuồng nộ. Tôi cảm thấy mẹ tôi đi qua tôi trên đường bà ra ngoài. Bà che chở thi thể Carlton bằng chính tấm thân mình.

Anh được chôn ở nghĩa địa sau nhà. Nhiều năm trôi qua – chúng tôi đang sống ở tương lai, và hóa ra nó rất khác so với những gì chúng tôi đã dự định. Mẹ tôi đã tạo nên một cuộc sống tách biệt của riêng bà đằng sau cánh cửa phòng khách. Bố tôi khe khẽ gửi lời chào về phía cửa mỗi khi ông đi qua đó.

Một đêm tháng Tư, gần một năm sau ngày xảy ra tai nạn của Carlton, tôi nghe tiếng những bước chân thận trọng đang di chuyển trên sàn phòng khách lúc đã quá nửa đêm. Tôi hăm hở chạy ra, nghĩ đến những hồn ma, nhưng chỉ thấy bố tôi trong bộ pyjama màu bướm đêm. Ông do dự nhìn vào khoảng không tối đen trước mặt.

“Bố ơi,” tôi gọi từ ngưỡng cửa.

Ông nhìn về phía tôi. “Ơi?”

“Là con. Bobby đây.”

“Ồ, Bobby à,” ông nói. “Con đang làm gì thế, hả con trai?”

“Con chẳng làm gì cả,” tôi bảo ông. “Bố ơi?”

“Sao vậy con trai?”

“Có lẽ bố nên đi ngủ đi. Được không ạ?”

“Có lẽ thế,” ông nói. “Bố chỉ định ra ngoài này để uống nước thôi, nhưng có vẻ bố đã đi loanh quanh trong bóng tối. Đúng, có lẽ bố nên làm theo lời con bảo.”

Tôi cầm tay ông và dẫn ông đi dọc hành lang về phòng ông. Chiếc đồng hồ quả lắc điểm mười lăm phút.

“Xin lỗi,” bố tôi nói.

Tôi đưa ông lên giường. “Thế,” tôi nói. “Được chưa ạ?”

“Tuyệt. Không thể tốt hơn.”

“Vâng. Chúc bố ngủ ngon.”

“Chúc con ngủ ngon. Bobby này?”

“Dạ?”

“Con ở lại một phút được không?” Ông nói. “Bố con mình có thể nói chuyện. Con thấy thế nào?”

“Được ạ,” tôi nói. Tôi ngồi bên mép đệm. Chiếc đồng hồ cạnh giường ông kêu tích tắc từng phút.

Tôi có thể nghe thấy tiếng thở khó nhọc của ông. Quanh căn nhà, màn đêm Ohio rộn lên tiếng côn trùng râm ran, rả rích. Ngón tay màu xám nhỏ bé trên bia mộ của Carlton nhô lên giữa những ngôi mộ khác, trong tầm nhìn của đôi mắt trắng trống rỗng của bức tượng thiên thần. Phía trên đầu chúng tôi, những chiếc máy bay và vệ tinh cứ nhấp nha nhấp nháy. Ngay cả giờ này người ta cũng đang bay đến New York hoặc California, để tiếp tục cuộc sống liều lĩnh và sáng tạo.

Tôi ở lại cho đến khi bố tôi thiêm thiếp ngủ.

Bạn gái của Carlton đã chuyển đến Denver cùng gia đình một tháng trước. Tôi không bao giờ biết được chị đã thì thầm những gì với anh. Dù chị vẫn giữ được bình tĩnh một cách đáng phục trong suốt vụ tai nạn, nhưng chị đã suy sụp ngay sau đó. Chị đã khóc lóc rất thảm thiết tại đám tang của anh đến nỗi mẹ chị - một phiên bản già hơn và có mái tóc đỏ hơn của chị - phải đưa chị đi. Chị bắt đầu đến gặp bác sĩ tâm lý ba lần một tuần. Mọi người, bao gồm cả bố mẹ tôi, nói rằng việc ôm một chàng trai chết trong tay ở độ tuổi đó là quá nặng nề với chị. Tôi biết ơn chị vì chị đã ôm anh trai tôi khi anh chết, nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy chị nhắc đến việc: dù chị đã phải trải qua một chuyện tồi tệ, nhưng ít ra chị vẫn sống và tiếp tục con đường của mình. Ít ra chị cũng bớt dằn vặt vì đã cố cảnh báo anh. Tôi có thể hiểu được nỗi đau phức tạp của chị. Nhưng chừng nào chị còn ở Cleveland, tôi không bao giờ nhìn thẳng vào mặt chị được. Tôi không thể nói đến những vết thương mà chị phải chịu đựng. Tôi thậm chí còn không thể viết nổi tên chị.