Chương 986: Tả Vĩ

Tả Vĩ (? ~ ước 1142) tự Kinh Thần, hiệu Ủy Vũ cư sĩ, Hoàng Nham huyện (nay Chiết Giang Hoàng Nham khu) thành đông Vĩnh Ninh bên dưới ngọn núi người. Không bao lâu lấy thơ văn nghe tên Đài Châu. Sớm tuổi làm cử tử nghiệp, sau cho rằng này không đủ là học, bỏ đi, chung thân chưa sĩ.

Thơ học Đỗ Phủ, coi trọng “Ý lý thú” ba chữ. Bắc Tống Thiệu Thánh ba năm (1096), Hứa Cảnh Hành nhậm Hoàng Nham Huyện thừa, hai người kết làm tri kỷ, sau cùng Lưu An trên, Chu Hành Kỷ các phú thơ phụ xướng. Chính Hòa thời kỳ, Tả Vĩ bách bài thơ làm tên cả triều dã. Tôn Phó nói: “Này không phải người thời nay chi thơ vậy, nếu trí chi đỗ tập, ai có thể phân rõ?” Chính Hòa năm năm (1115), biên thành 《 ủy vũ cư sĩ tập 》, Hứa Cảnh Hành, Hoàng Thường làm tự: “Tự Đường Thiên bảo sau, không nghe thấy này làm rồi.”

Tuyên Hoà ba năm (1121) bốn tháng, cuộc khởi nghĩa Phương Lạp quân Lã Sư Nang bộ công chiếm Hoàng Nham, Tả Vĩ làm 《 tránh khấu bảy thơ 》, thật đức tú tán thưởng có thể cùng Đỗ Phủ 《 bảy ca 》 sánh ngang. Nhân xưng “Văn như hàn lùi chi (dũ), thơ như đỗ Tử Mỹ (phủ).” Tốt sau, hữu ti gián Trần Công Phụ (Lâm Hải người) soạn mộ chí, điệu thơ viết: “Có đức truyền trong thôn, không nay di tử tôn.”

Tả Vĩ 《 ủy vũ cư sĩ tập 》, Hoàng Thường vì đó làm tự: “Mộ Đỗ Phủ, Vương Duy chi phong rất nghiêm”. Này tập đã dật. Dân quốc, vương phân tập có 《 ủy vũ cư sĩ tập 》 một quyển. Sự tình thấy Tống 《 Gia Định xích thành chí 》 quyển 3 bốn.

Tả Vĩ có 4 con, một người mất sớm, ba người kia Tả Tất, Tả Phan, Tả Dư đều là tiến vào thổ, xưng “Ba tả”. Hậu nhân xưng: “Ấp người đàm luận tiền bối văn chương, tất viết ‘Ba tả’, ‘Hai bành’ ”. Núi đình nhai cùng tùng quế phường, quế chi cầu cùng từ núi miếu, nguyên là Tả thị nơi ở, sau đó đều là kỷ niệm Tả thị ba Tiến sĩ kiến trúc, đến nay vẫn còn có di tích có thể tìm ra.

Tả Tất, tại Thiệu Hưng hai mươi bảy năm (1157) đậu Tiến sĩ, cùng năm theo Lễ bộ Thị lang tôn nói phu đi sứ nước Kim hạ chính đán, là sách trạng quan, trung trinh bất khuất, bị giam giữ chết ở nước Kim Yến Sơn bên dưới, 《 Vạn Lịch Hoàng Nham huyện chí 》 nhập “Trung nghĩa truyền”.

Tả Phan, Nam Tống Thiệu Hưng hai mươi bốn năm (1154) Tiến sĩ, rốt cục sắc lệnh San định quan, 《 Luận ngữ phát vi 》 10 quyển, Cao Tông lãm sau tứ nội phủ tàng bạch. Có thơ tên.

Tả Dư, tự Thứ Diễm, Thiệu Hưng hai mươi bảy năm (1157) rất khoa Tiến sĩ, nhậm Ngự tiền Quân khí Sở giám. Có thơ tên.

Tả Vĩ còn có hai cái cháu trai, cũng là tên thi nhân:

Tả Dự, tự Dữ Ngôn, hiệu quân ông, Hoàng Nham người, tạm trú Lâm Hải. Nam Tống kinh đô Lâm An từng truyền: “Hiểu phong trăng tàn liễu ba biến (vĩnh), nhỏ phấn xoa tô tả cùng ngôn”, cuối cùng trở thành thơ tăng, có 《 quân ông dài ngắn câu 》.

Em trai Tả Thiện, thơ cũng giai, cùng Hứa Cảnh Hành phụ xướng, lấy 《 đề tương bên trong trạm bưu điện bích 》 thơ ca ngợi nhất thời.

Lúc đó cũng có đem Tả Vĩ cùng Tả Dự, Tả Thiện hợp xưng “Ba tả”, đây là Nam Tống sơ kỳ Hoàng Nham văn đàn giai thoại.

Convert by: Hiếu Vũ