Chương 49: Chương 17 - part 2

Chuyện của cõi u minh có lẽ chúng ta không thể tìm hiểu tường tận được, nhưng nếu giữ lại tất cả các linh hồn đã mất từ khi chúng ta biết ghi chép lịch sử, vậy thì các nói “mỗi bước chân của người dương thế đều có bước chân của quỷ” quả là không quá đáng chút nào. Nhưng cũng may, con người thường nghĩ đến sự sống của bản thân trước, nếu phải đặt những ngôi nhà ở cõi âm ti ấy thẳng hàng trên một con đường, thì chẳng thà hãy để cho chúng trùng khớp lại với nhau, hoặc là để cho những huyệt mộ đào thải ma cũ tiếp nhận ma mới. Điều này cũng dẫn đến những xung đột không thể tránh khỏi về “quyền sử dụng đất” trong cõi u minh.

Có lẽ những ngôi nhà dưới âm phủ của dân thường thì chẳng đáng để bàn ở đây làm gì. Cỗ quan dày ba tấc, một mảnh đất con con, thậm chí không khác gì những kẻ ăn xin, làm trâu làm ngựa cho người khác chỉ để khi trút hơi thở cuối cùng có một nơi an nghỉ. Nhưng cũng không được mãi mãi, cho dù con cháu vẫn còn nhưng không phải coi sóc phấn mộ tổ tiên từ mấy đời trước, vì vậy, hàng trăm năm trôi qua, lớp này chồng lên lớp khác, không biết có bao nhiêu ngôi mộ bị chồng lên nhau.

Đối với những người có tiền thì hơi khác một chút, lúc sinh thời được ở trong nhà cao cửa rộng, khi chết đi mộ phải cao tám thước, đất chiếm ba phần, rất ngông ngheeng bá đạo. Trước mộ còn phải lập một bia đá, trong mộ còn đặt một tảng đá lên là “mộ chi danh”, đây cũng được coi như “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của người âm. Nhưng thời gian trôi qua, con cháu lãng quên, bỏ bê việc chăm sóc thì sẽ lại có kẻ nhà giàu khác ngắm trúng mảnh đất đó, hoặc bỏ tiền ra mua lại, hoặc cố tình xâm chiếm. Còn về kẻ đã sở hữu mảnh đất từ mấy đời nay, lúc này đành phải dời đi, hoặc lại lang thang phiêu bạt nơi cỏ nội đồng hoang, dần dần bay theo những cơn gió làm đề tài cho các thi nhân.

Đây là “hình tượng” được nhìn ở góc độ của người dương thế, còn đối với cõi u minh, việc xác định chủ nhân mảnh đất đương nhiên sẽ xảy ra tranh chấp rồi. Còn tranh chấp như thế nào, có phải mỗi người cầm một tấm khế ước quyền sử dụng đất đem đến nhờ Diên Vương phân xử hay không thì chúng ta không thể nào biết được, nhưng những câu chuyện hồn ma cãi vã, đánh nhau, thậm chí dùng đến cả đao kiếm thì có được ghi chép lại trong các câu chuyện lịch sử. Trong Sưu thần hậu ký có ghi câu chuyện hồn ma của Lỗ Tiêu, đời Đông Tấn giữ nhà: “Nhà Vương Bá Dương sống ở Kinh Khẩu (nay là Trấn Giang), phía đông nhà có một ngôi mộ lớn, tương truyền đó là mộ của Lộ Tiêu. Phu nhân của Vương Bá Dương xuất thân là con nhà quyền quý, năm đó lâm trọng bệnh qua đời, Vương Bá Dương liền san bằng ngôi mộ của Lỗ Tiêu, rồi chôn vợ mình vào đó. Mấy năm sau, hồn ma của Lỗ Tiêu mang mấy trăm binh mã xông thẳng vào phòng khách nhà Vương Bá Dương mà rằng: “Ta đây là Lỗ Tử Kính, sống ở đây đã hơn hai trăm năm, cớ làm sao mà người lại phá nhà của ta?”, ròi quát một tiếng, ra lệnh đám lính ra tay. Đám quân ma quỷ liền lôi Vương Bá Dương xuống, lấy đao cứa vào cổ cho đến khi thấy Vương Bá Dương không thở được nữa, mới dừng tay. Khi Vương Bá Dương tỉnh lại, những chỗ thịt bị dao của đám âm binh cứa đều thối rữa, chẳng bao lâu thì ông cũng qua đời.” Nhưng cũng có một cách nói khác, cho rằng người chết không phải là vợ của Vương Bá Dương mà chính là ông ta. Khi các con đào huyệt mai tang cho Vương Bá Dương thì đào được một cỗ quan tài sơn màu đen, liền đem vứt lên Nam Cương. Đêm hôm ấy, con trai Vương Bá Dương mộng thấy Lỗ Tiêu hiện về, tức giận quát: “Ta sẽ giết chết cha người.” Nhưng Vương Bá Dương lúc này đã chết rồi, nếu giết thêm lần nữa thì chẳng phải làm ma cũng không được hay sao? Một lát sau, Vương Bá Dương cũng hiện về báo mộng cho con trai, kể cho con nghe chuyện Lỗ Tiêu đòi mộ ra sao, nếu như không đấu lại được ông ta, thì e rằng sau này hai cha con sẽ vĩnh viễn không được nhìn thấy nhau nữa. Kết quả của trận đấu này là Vương Bá Dương bị giết, hôm đó trên linh tọa của ông ta đột nhiên chảy ra một dòng máu đỏ tươi.

Người ta tưởng rằng Lỗ Đại tướng quân trung hậu như Đàm Phú Anh diễn trong Thảo nguyên mượn tên, thật không ngờ sau khi chết ông lại trở nên hung hãn như vậy. Nhưng nghĩ cho cùng, người ta là bậc thiếu niên anh hùng, biết cưỡi ngựa, bắn tên, được mệnh danh là “đứa trẻ hoang dã”, sau đó còn kế nghiệp Chu Lang, đươc phong làm Đại đô đốc, dám vượt sông bắt tiệc của Quan đại gia, một nhân vật có máu mặt như thế lại dễ tranh giành lắm sao? Vì vậy, nếu cứ coi những diễn trong tuồng, trong kịch là thật thì đúng là tự chuốc vạ vào thân. Những thứ cầu hiền như nắng hạn mong mưa, thương dân như con như hoàng đế Vĩnh Lạc hau Lưu Cẩn trong Pháp môn tự liệu có tin được không?

Ngoài ra, nếu không phải việc nhà mình mà mang hài cốt của người khác chôn nhần chỗ cũng sẽ tự chuốc họa vào thân. Trong chương ba trăm hai mươi ba, quyển Thái bình quảng ký có dẫn câu chuyện Thần quỷ lục, anh em Ngô Quân, Trương Thị mua được một căn nhà mới, trong lúc dọn dẹp chợt đào được một chiếc quan tài. Hai an hem liền mua một cái chum sành, đặt bộ hài cốt vào đó, rồi đem đi chôn ở chỗ khác. Không ngờ đêm đó có con ma đến gõ cửa, hét lớn: “Tại sao hai vị lại phá hoại chỗ ở của người khác để làm chỗ ở ình?” Hai an hem lập tức hiểu ngay là chuyện gì liền đáp rằng: “Chúng tôi đã mai tang các hạ ở chỗ mới tử tế rồi, chúng tôi có gì sai chứ?” Con ma liền đáp: “Các người đưa tôi đến bên cạnh mộ Ngôi Đại tướng quân, tôi chỉ là kẻ thấp cổ bé họng làm sao đấu lại được với ông ấy chứ? Ngày nào ông ấy cũng mang quân đến đạp cửa đòi nhà. Nếu hai vị không tin thì đi theo tôi khắc rõ.” Hai anh em liền mơ màng đi ra khỏi nhà, khi ra đến phần mộ hôm trước, quả nhiên nghe thấy trong mộ có tiếng dao kiếm chém giết.

Cõi u minh cũng giống như cõi trần, muốn được yên thân thì tốt nhất hãy tránh xa những gia đình quyền quý. Nhưng nếu gặp phải những kẻ lưu manh liều mạng thì cũng có những ngoại lệ. Câu chuyện tranh chấp mộ phần nổi tiếng nhất trong lịch sử phải kể đến câu chuyện của Phùng Mộng Long trong Du thế minh ngôn. Tác giả miêu tả trận chiến long trời lở đất, khốc liệt vô cùng giữa Kinh Kha và tên lưu manh Dương Giái Ai. Dương Giác Ai mai tang người anh em kết nghĩa của mình là Tả Bá Đào tại góc mộ Kinh Kha, không ngờ hồn ma của Kinh Kha vô cùng hung dữ, hằng ngày đều dẫn quân xông vào mộ của Tả Bá Đào mắng rằng: “Người là tên nhãi chết đói chết rét đâu đường xó chợ, lại dám đặt mộ ngay trên vai ta, chắn hết phong thủy. Nếu không mau chuyển ra chỗ khác, ta đây sẽ đào mộ vứt thây ra ngoài rừng hoang cho chó tha!” Tả Bá Đao biết không thể chọc giận Kinh Kha liền báo mộng cho Dương Giái Ai, bảo Giác Ai nhanh chóng di dời mộ của mình ra chỗ khác để tránh điềm hung. Nhưng Dương Giác Ai không chịu nhượng bộ, liền đốt mấy chục hình nhân bằng cỏ gửi xuống làm âm binh, hộ vệ huynh đệ của mình. Trận chiến hôm đó Kinh Kha lại có Cao Tiện Li đến trợ giúp, kết quả Tả Bá Đào thảm bại tháo chạy. Dương Giác Ai tức giận mà rằng: “Kinh Kha ngươi có tên Cao Tiện Li trợ sức, lẽ nào ta lại không thể tương trợ cho huynh đệ của ta sao?” Nói xong liền rút kiếm, cứa cổ tự vẫn, xuống âm phủ hỗ trợ cho huynh đệ của mình. “Canh hai đêm ấy chợt mưa gió ầm ầm, sấm chớp dữ dội, tiếng gào tiếng thét, tiếng gươm đao vang xa hơn mười dặm. Sáng hôm sau ra xem, thấy mộ của Kinh Kha bị sụt sâu như một cái huyệt, xương cốt vương vãi đầy trước mộ, cây tùng bên mộ cũng bị đổ, bật hết cả gốc.”

Câu chuyện miêu tả về mối thâm tình sinh tử của hai huynh đệ kết nghĩa, nhưng đọc xong vẫn khiến người ta cảm thấy không thỏa mãi. Theo ý kiến cá nhân tôi, thương ngày áp bức, ức hiếp dân lành đều là những tên cường hào ác bá hoặc là những tên tiểu nhân mới phất, còn những người dám tuyên chiến với hôn quân bạo chúa thì sẽ luôn chung sống hòa bình với nhân dân, một người tính tình khảng khái, là đấng anh hùng trượng phu thì sao có thể gây ra chuyện hoang đường như thế được? Hơn nữa Kinh Kha mưu sát Tần Vương thất bại, lẽ nào Tổ Long gia còn để cho ông được toàn thây? Tra lại nguyên tác của câu chuyện trong Liệt sỹ truyện, thì ra Kinh Kha vốn là Kinh tướng quân, một tướng tài của nước Sở, sau bị những kẻ nhiều chuyện sửa bậy. Hơn nữa câu chuyện xảy ra vào thời Sở Bình Vương thời Xuân Thu, nhưng lại đưa thi thể của Kinh Kha mấy trăm năm sau bị ngũ mã phanh thây ở thành Hàm Dương về an táng ở Hà Nam, đúng là hoang đường, không thể tin được. Những chuyện được biên soạn vô căn cứ, phỉ bang danh nhân để thu hút người đọc này đã là chuyện thường tình. Phùng Mã Long am hiểu lịch sử thời Xuân Thu, hơn nuawc lại không phải người hay viết chuyện lừa thiên hạ, ông còn có cả một tác phẩm để đời là Lân kinh chỉ nguyệt, lẽ ra ông không nên mắc phải lỗi sai sơ đẳng này. Lại tra cứu tiếp về nhân vật Dương Giác Ai, hóa ra chuyện Dương Giác Ai quên mình vì bạn lại lấy từ Thanh bình sơn đường thoại của Hồng Biện, trong đó, tác giả cảm thấy để cho Sở Bình Vương Lễ Hiền chiếm đoạt con dâu là việc rất phi lý nên sửa lại thành Sở Bình Vương Lưu Giao thời Tây Hán, nhưng lại quên mất không sửa thời Xuân Thu thành thời Tây Hán.

Nói như thế không có nghĩa Kinh Kha là nhân vật dễ chọc. Nếu như đám ưng khuyển của Tần Thủy Hoàng đem mồ mả mà trấn áp lên đầu Kinh Kha thì hắn cũng vẫn khuấy động cam qua, khi đó bè lẽ vây cánh Trần Thắng, Ngô Quảng lại móc ngoặc, hùa vào với nhau, đem xương cốt rải trước mộ, có lẽ là chuyện ngàn năm có một.

Phụ ký

Dành đến hai phần để viết về vấn đề nhà ở cõi u minh, có lẽ những gì cần nói cũng đã nói hết cùng bạn đọc. Có lẽ chỉ còn một điểm chưa nhắc đến đó là khu nhà hung, nhưng chỉ khi người và ma cùng chung sống dưới một mái nhà thì mới thành nhà hung. Vấn đề này có lẽ tác giả sẽ bàn kỹ hơn ở một phần riêng. Ngoài ra còn một phần nhỏ mà tác giả cố tình không nhắc tới, mục đích không phải là muốn giấu bạn đọc, mà là vì những quan điểm đó sẽ làm nhiễu những nội dung mà chúng ta đã nói ở trên.

Vong hồn và hài cốt có mối quan hệ mật thiết, nhưng không phải tất cả du luận trong xã hội đều thống nhất cho rằng hồn ma trú ngụ trong hài cốt đương nhiên sẽ có những chuyện kỳ quái ngoại lệ xảy ra cho dù không được đa số quần chúng tiếp nhận, ví như trời bỗng chốc âm u, xám xịt, nổi phong ba, làm mặt nước mùa xuân đang phẳng lặng bỗng dưng dậy sóng, hơn nữa những kẻ khơi dậy những luận điểm này lại chính là các phần tử trí thức bậc cao. Dưới đây xin giới thiệu với bạn đọc hai luận điểm khác với cách nhìn nhận của đa số quần chúng, đều là những câu chuyện bắt đầu từ thời Ngụy Tấn cho đến ngàn năm sau vẫn có những tranh cãi không dứt.

Thứ nhất là về thuyết “hồn vô sở bất chi”. Trong Khổng Tử gia ngữ có kể một câu chuyện như sau: “Cuối thời Xuân Thu, Quý Trát người nước Ngô đi sứ nước Tề, trên đường về nước, con trai ông chết ở giữa ấp Danh và ấp Bắc (tên hai ấp của nước Tề). Khổng Tử nghi tin liền nói: “Từng nghe Quý Tử là người hiểu lễ nhất nước Ngô, ta muốn đi xem xem ông ta lo liệu việc ma chay thế nào.” Nói rồi liền tới nơi đó xem, thì thấy Quý Trát không mang thi thể con trai đưa về nước Ngô, mà liệm bằng quần áo thường, rồi chôn ngay ở nơi đất khách quê người, huyệt không sâu, mả không cao, mà rằng: “Thi thể trở về đất, âu cũng là số mệnh, nhưng còn vong hồn thì không bị trói buộc.” Khổng Tử nghe vậy thì ca ngợi hết lời: “Quý Tử đúng là người hiểu biết, xử lý rất hợp tình hợp lý.”

Tại sao Quý Trát không đưa thi thể con trai mình về nước Ngô, bởi vì ông cho rằng, dù xương cốt bị chôn vùi trong đất nhưng linh hồn không bị chôn vùi theo mà là “vô bất chi”.

Khổng Tử gia ngữ được viết thành sách ở thời Ngụy Tấn, tương truyền tác giả chính là Vương Tiêu, hầu hết những câu chuyện được viết lại trong đó đều là hư cấu. Quan điểm của Quý Tử có lẽ chính là đại diện cho quan niệm của một bộ phận tri thức thời bấy giờ. Nhưng Khổng Tử ở đây không phải nhân vật trong ngụ ngôn của Trang Tử, sự khẳng định của ông đối với quan điểm của Quý Trát là lấy căn cứ từ Nho học. Trong Lễ ký, Khổng Tử ủng hộ quan niệm “cổ bất tu mộ”, cho dù mưa gió làm hư hỏng phần mộ của phụ mẫu, thì cũng chỉ là sự biến chuyển theo thời gian, vì về mặt lý tính, ông cho rằng vong hồn của cha mẹ không ở trong mộ.

Còn về thuyết “vô bất chi” của Quý Trát, mặc dù có thể lý giải là “vô sở bất chi”, đông tay nam bắc tứ bề đều không bị ràng buộc, có thể tự do phiêu bạt đến nơi mình muốn, nhưng cũng có thể hiểu là linh hồn của người ta sau khi chết phân tán khắp mọi nơi. Điều này tiềm ẩn một tư tưởng nguy hiểm hơn, đó là đưa quan điểm về linh hồn đến chỗ không tồn tại. Điều này được thể hiện rất rõ qua cuộc tranh luận giữa Hình Thiệu và Đỗ Bật về “hồn vô bất chi” và “danh lý”. Hình Thiệu là đại tài tử ở phương Bắc, nổi tiếng về văn chương. Ông cho rằng thuyết “vô bất chi” của Quý Trát muốn nói linh hồn sẽ bị phân tán khắp nơi, nếu sau khi bị phân tán, các mảnh hồn tự về với nhau thì trở lại thành “hồn”, vậy thì không cần phải nhắc nó là “vô bất chi”. Còn Phạm Chẩn, đời Nam Triều lại cho rằng “hồn vô bất chi” có nghĩa là “hồn bị phân tán”, “hồn khí quy vu thiên” tức là “tan biến vô hình như mây khói về trời”, cuối cùng mới quy tụ về với nhau ở vô quỷ. Nếu độc giả có hứng thú, có thể tìm đọc thêm Bắc Triều thư - Đỗ Bật truyện để tìm hiểu thêm về cuộc tranh luận này. Có thể nói đây là một cuộc tranh luận bất phân cao thấp, sau đó Đỗ Bật và Hình Thiệu vẫn không ngừng thư từ qua lại để tranh luận, cuối cùng Hình Thiệu đuối lý, cuộc tranh luận mới đến hồi kết thúc.

Thời Nam Triều, đối thủ của Phạm Chẩn là một đệ tử Phật giáo. Vào thời Bắc triều cũng nổ ra một cuộc tranh luận trong nội bộ Nho giáo. Nếu tư tưởng “thần diệt” của Phạm Chẩn liên quan đến vấn đề tôn giáo, thì Hình Thiệu lại kiên trì quan điểm “vô quỷ luận”, ông muốn thách thức với luân lý xã hội thời bấy giờ, đương triều tư tưởng của ông không thể chiến thắng được luân lý của cả một xã hội, nhưng nó cũng cho thấy sự khí khái, chân thực của một đại tài tử tài ba.

Một quan điểm khác lại cho rằng, “hồn tê vô chủ”, vong hồn không trú ngụ ở thi thể trong mộ, mà ký thác ở bài vị thờ trong nhà.

Quan điểm này do Thái Ung cuối thời Đông Hán đưa ra. Trước đây, khi hoàng đế tế bái tiên nhân đều không tế bái ở lăng mộ mà mọi nghi thức đều được tiến hành ở miếu tế. Thái Ung uyên bác, đa tài, là bậc vô song thời đó, hậu thế sau này cũng ít ai bì kịp ông. Những tư tưởng, quan điểm của ông luôn được đánh giá rất cao. Tào Tháo vẫn là người cùng thời với Thái Ung, hai người cũng có chút giao tình, sau khi Tào Tháo lên ngôi, Ngụy Vương liền hạ lệnh, sau khi ông mất, phải khâm liệm bằng quần áo đương thời, không được chôn vàng bạc châu báu gì theo. Điểm này hoàn toàn tương đồng với Quý Trát trong Khổng Tử gia ngữ. Nhưng con trai Tào Tháo là Tào Phi, sau khi kế vị, lấy danh nghĩa hoàng đế ban hành “Chung chế”, trong đó trích dẫn rất tỉ mỉ lời của Thái Ung: “Xương cốt không biết đau, nghĩa địa không phải nhà của các vong hồn… Áo quan chỉ là cái hòm chứa hài cốt, áo liệm chỉ để che hài cốt mà thôi.”

Con người sau khi chết, hồn tiêu phách tán, nếu không muốn hồn phách tan vào hư vô thì dựng cột gỗ, người sống thành tâm cầu nguyện, để vong hồn người chết vào trú ngụ trong đó. Cột gỗ phải được làm phép ở miếu tế, mọi người phải cùng nhau đến miếu làm lễ cúng bái. Còn thể xác vô tri, chôn vùi dưới đất chẳng qua là chúng nhanh chóng phân hủy mà thôi. Vì vậy, khi chọn đất an tang cần chú ý chọn những nơi “bất phong bất thụ”, thi thể nhanh chóng hòa vào với tự nhiên. Nếu cứ nói theo quan điểm trên thì những lễ tế chiêu hồn, xây dựng nghĩa địa chỉ là những trò vớ vẩn, dựng bia tảo mộ cùng là việc dư thừa mà thôi. Với lý luận này, đừng nói là nhân dân mà cả những học sĩ bình thường cũng khó có thể chấp nhận được. Trong các tác phẩm kinh dị từ thời Ngụy Tấn như Sưu thần ký cũng đã xuất hiện vô số những câu chuyện về ngôi mộ của quỷ. Nguyên nhân sâu xa của các câu chuyện này có lẽ là nhằm mục đích chống lại thuyết “cổ vô mộ tế” mà thôi.