Chương 16: Hoàng tuyền không nhà trọ
1
Giang Vi, người nước Mân thời Ngũ Đại, vì giúp bạn trốn về nước mà ông ta phải chịu liên lụy. Trước khi bị xử tử, lời lẽ ông rất dứt khoát, rằng: “Muốn đánh đàn để tưởng nhớ Kê Khang vào ngày giỗ của người, nhưng thời gian đã không còn nữa, nhưng ta vẫn kịp phú một bài thơ tặng người.” Nói rồi ông cầm bút lên viết: “Nha cổ kinh nhân cấp. Tây khuynh nhạt dị tà. Hoàng tuyền vô lữ điếm. Kim dạ túc thùy gia?”[1] Ông chỉ nghĩ đến việc xuống âm phủ sẽ ở chỗ nào, dường như ông không hề nghĩ tới việc đầu mình sắp lìa khỏi cổ. Tự như ông đang chăm lo cho viên đao phủ lau sạch lưỡi dao, để lát nữa tránh khỏi một lần làm rách gió vậy, bài thơ của ông khiến người ta tưởng như nặng nhẹ đã đổi chiều, họ không nín nổi cười, nhưng thực ra cái mà ông viết chính là sự thong dong thư thái của nhà thơ, đương nhiên trong đó tất có chứa chất sự khinh miệt đối với những kẻ quyền thế, thích dương oai.
[1] Nghĩa là: Trống phủ rợn kinh người, mặt trời nghiêng xuống núi, hoàng tuyền không quán trọ, đêm nay nghỉ nhà ai?
Đến triều Minh, năm Thái Tổ, nhà thơ Tôn Phần đề một bức họa tặng cho Lam Ngọc, khiến Chu Hồng Vũ không vừa lòng, cho rằng lập trường của Tôn Phần có vấn đề, giáng chỉ lệnh chặt đầu ông. Trước khi chết AQ có hô khẩu hiệu hay không không quan trọng, nhưng không thể trở thành nhà thơ khâm phạm của triều đình được, bởi Thái tổ quá anh minh, không nói gì, hóa ra lại là nhạo báng người. Vậy thì hô “vạn tuế”, hát “hoan lạc tụng” đi, nói cũng chỉ là những lời nói không thật lòng, mang ý đả kích, nó còn ác độc hơn khi hô “lật đổ”. Thế là ông học Khổng Phu Tử, nói những gì người xưa nói, chứ không dùng của mình, hai mươi chữ của Giang Vi[2], ông xin “mượn tạm” một nửa, nói rằng: “Đà cổ tam thanh cấp. Tây sơn nhật tựu hà. Hoàng tuyền vô khách xá. Kim nhật túc tùy gia.”
[2] Giang Vi là nhân tài một thời, nhưng vận mệnh của ông không được may mắn, không chỉ phải chịu án chém đầu mà tất cả những bài thơ do ông sáng tác đều bị đốt hết. Ngoài cái đầu thì ngay cả những thứ như Bóng trúc đâm xiên mặt nước trong. Quế hương lay động ánh trăng non cũng bị người ta cướp sạch, điều đó lại càng khiến Giang Vi thêm nổi tiếng.
Sau khi quan giám hình đã lo cho nhà thơ Tôn lên đường xong xuôi, Thái Tổ còn hỏi Tôn Phần có điều gì muốn nói trước khi bị hành hình không, quan giám hình báo cáo lại y nguyên như vậy, không ngờ Thái Tổ tức giận nói: “Có thơ hay vậy mà không tấu, thế là thế nào?” Có phải ông ta tức giận quát: “Mau trả lại nhà thơ Tôn Phần cho ta!”, điều này không cần nói cũng biết, và thực sự ông ta đã lệnh chặt đầu viên quan giám hình. Thái Tổ miệng nói bài thơ này hay, nhưng chắc ông ta không có ý định lấy bài thơ này làm bản mẫu cho lớp thơ phong mới, bài thơ đó chẳng qua chỉ là mượn đề mục để đùa cợt với quyền thuật một chút mà thôi. Hiệu quả của quyền thuật là, những tên nô tài phạm tội sau này cứ nhắc đến việc này là họ nói, thực ra Thái Tổ rất yêu quý thành phần trí thức.
Đứa con trai ruột ăn chơi của Vạn Tuế gia càng không quan tâm tới chuyện đó, chỉ nói câu của nhà thơ Tôn Phần: “Hoàng tuyền không khách xá”, lúc đó nếu trau chuốt một chút, thì dù có là người dửng dưng cũng phải cảm thấy đau đơn. Thử nghĩ, cây đao sáng lóe trên tay tên đao phủ, chỉ cần hạ xuống là đã đưa nhà thơ từ pháp trường sang một thế giới khác, chỉ thấy có một vùng cỏ hoang ngút trời, sương đêm tứ phía bổ vây, chẳng phải nói người dưng đất lạ, mà có khi đến một bóng quỷ cũng chẳng nhìn thấy. Lúc đó, không cần nói đến trạm đón khách hay nhà nghỉ, mà muốn tìm một nhà vệ sinh rách nát chắc cũng khó.
Thế là lại nghĩ tới vấn đề nhà ở khi các hồn ma xuống âm phủ.
Dưới thuyết địa ngục và thuyết luân hồi của Phật giáo, các hồn ma không quan tâm đến vấn đề nhà ở, đương nhiên, người lạc quan cũng cố gắng hiểu ở đó là “chế độ ăn ở bao cấp”. Dưới thể chế ấy, nơi quy tụ của các vong hồn sau khi thanh toán tất cả mọi tội lỗi và phúc phận được tích dồn khi còn sống chính là sáu đường luân hồi. Diêm phủ là “vùng đất sinh tử luân hồi, là cửa khẩu qua lại giữa hai giới âm và dương”, đi đi lại lại, đón đón tiễn tiễn, các vong hồn đi vào Diêm phủ đều tự mình sắp đặt tất cả, cũng không cần thiết phải thu xếp nơi ở lâu dài. Nếu theo cách nói quen thuộc của Phật giáo dân gian Trung Quốc, địa ngục chỉ là một cơ quan của Diêm phủ, cũng giống như giam ngục được thiết kế bên dưới các nha phủ, vậy thì do tất cả các vong hồn đều bị giam vào đại lao, đồng thời tuyệt đối không cho phép người thân, bạn bè tới thăm nom, nên họ cũng không cần thiết phải lo lắng bên ngoài địa ngục có nhà trọ hoặc nhà ở hay không.
Nhưng trong vấn đề này, ý thức về âm phủ mà quan niệm đạo đức bản địa của Trung Quốc ủng hộ lại rất ngoan cường. Cụn Tri Đường trong quyển Thuyết vô quỷ từng nói rằng: “Ở Trung Quốc, khi nói đến “thuyết thần diệt” người ta còn có thể chịu yên, cái quan trọng ở đây là “thuyết vô quỷ”, bởi nó không thuộc về tôn giáo, nhưng vẫn là vấn đề về luân lý, nói “không có quỷ” chính là không công nhận tổ tong linh thiêng, tức là liên quan đến việc bất hiếu.” Câu chữ không nhiều nhưng rất sắc xảo, rất nhiều các bậc đại Nho gặp phải vướng mắc khi phải lựa chọn trong mơ hồ về vấn đề thần quỷ, do đó họ đã nhận lấy lưỡi dao để giải thoát ình. Quan điểm “vô quỷ” là bất hiếu, nói thẳng ra là không nhận tổ tông. Tương tự, nhận tổ tông rồi nhưng lại không lo xem tổ tông có chỗ trú ẩn hay không, như vậy chẳng phải bở rơi ông bà, bố mẹ ở nơi hoang vu hay sao? Vì thế, dù là các đệ tử Phật giáo hay các tín đồ Đạo giáo có biên soạn ra các loại sách thánh hiền thì người thân của người đã chết vẫn phải làm lễ siêu độ vong hồn, để tổ tiên sớm được hóa kiếp, như mỗi khi Tết đến xuân về, người ta vẫn phải cúng tổ tiên, vẫn phải đi tảo mộ, vẫn phải sửa từ đường, vẫn phải hóa tiền giấy… Xuất phát từ lòng hiếu thảo, họ phải tin rằng người thân của mình đang sống thoải mái dưới âm phủ. Chữ “hiếu” trong Nho giáo Trung Quốc vẫn phát huy được tác dụng chủ đạo trong văn hóa âm phủ. Như vậy, người đời không thể không lo cho cuộc sống của những người quá cố dưới âm phủ, và việc trước tiên họ cần làm đó là sắp xếp ổn thỏa việc ăn ở cho người đã khuất.
2
Xét từ góc độ của các hồn ma, chỗ ở của họ dưới âm phủ mới là “thực thể”, nhưng “thực thể” này lại không thể tách rời khỏi cái “hiện tượng giả” của người trần, đó chính là mộ phần, lăng tẩm, hoặc từ đường, miếu thần… Từ đường, miếu thần chỉ phù hợp cho những hồn ma của bậc vương công đại nhân, còn theo “những hiểu biết thế tục”, từ đường, miếu thần là nơi các vong hồn nhận hưởng sự thờ cúng, ăn uống xong, họ còn phải trở về lăng tẩm nghỉ ngơi. (“Những hiểu biết phi thế tục” về từ đường, thần miếu, xin xem phần Phụ ký ở cuối sách này). Nói tóm lại, mỗi hồn ma đều cần có một phần mộ ở dương gian, như vậy mới có thể bảo đảm chỗ ở tương ứng của họ ở dưới âm phủ. Nhưng tất cả mọi việc đều có trường hợp ngoại lệ, những hồn ma lang thang chết không chỗ chôn giống như những kẻ vô gia cư tại chốn dương gian, một ngôi mộ hoang cũng là mong muốn xa xỉ của họ. Tuy nhiên, dù là cô hồn, hồn ma lang thang cũng đều mong muốn có một chỗ trú thân ổn định, vì thế trường hợp “ngoại lệ” này thực ra vẫn không tách rời những phần mộ cho các vong hồn nương tựa.
Chỉ cần linh hồn không bị tiêu tan vào hư không thì họ nhất định cần một nơi để gửi gắm. Quan niệm truyền thống của Trung Quốc cho rằng, linh hồn chết đi sẽ ám vào hài cốt, nếu hài cốt nằm trong mộ thì vong hồn cũng sẽ nằm trong mộ. Bởi mộ phần chính là nhà của họ, vong hồn của tổ tiên tuy xa cách âm dương với con cháu, nhưng nơi họ ở lại rất gần. Thế là dù nhận hưởng sự thờ cúng hay phù hộ cho con cháu, tất cả đều rất tiện cho họ. Nếu người chết ở nơi đất khách quê người, vậy cần phải nghĩ cách để đưa hài cốt của họ trở về quê hương. Những câu chuyện kể về việc con cháu vượt ngàn dặm xa xôi đi tìm kiếm người thân, hoặc đi tìm hài cốt của người thân đều được đời đời ca ngợi, đó cũng là việc bắt nguồn từ quan niệm này. Giả như chết ở nơi chiến trường, hơn nữa lại chết ở bên ngoài biên giới, không những không tìm thấy xác, mà có tìm thấy thì cũng chẳng thể phân biệt được đâu là người nhà, lúc đó chỉ có một cách duy nhất, đó là xây một ngôi mộ giả tại quê nhà, sau đó chiêu hồn về mai táng. Trương Đế thời Đông Hán có bài chiếu văn như sau: “Cha chết phía trước, con chết phía sau. Phụ nữ chân yếu tay mềm đứng nơi pháo đài, đứa bé mồ côi gào thét bên đường. Mẹ già vợ góa, xây mộ hờ thờ, nước mắt tuôn rơi, mong sao vong hồn nơi sa mạc tìm đường trở về, thật đau xót thay!” Có thể giải thích một chút, “đau xót” ở đây chính là để chiêu những vong hồn đang lang thang “nơi sa mạc” “trở về”. Tóm lại, linh hồn của người đã khuất phải được yên ổn trong mộ. Bởi linh hồn cũng cần có một ngôi nhà, chỉ ở đó linh hồn mới được sống một cuộc sống như người thường. Lục Cốc trong Thanh dị lục có viết: “Chỗ đất mai táng gọi là nhà của vong hồn.” Điều này chứng tỏ mộ phần chính là nơi cư trú của các vong hồn.
Những câu chuyện về vong hồn ở mộ được gặp nhiều trong các quyển tiểu thuyết thời Ngụy Tấn, trong đó tiêu biếu nhất chính là câu chuyện về con gái Ngô Vương tên Tử Ngọc trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tử Ngọc và chàng thanh niên Hàn Trọng yêu nhau, tự hẹn ước sẽ thành vợ chồng. Hàn Trọng theo học Tề Lỗ, trước khi lên đường, bố mẹ chàng mang lễ vật tới nhà Ngô Vương cầu hôn, nhưng bị bên nhà Ngô Vương cự tuyệt. Sau khi biết chuyện, Tử Ngọc uất ức mà chết, xác nàng được mai táng bên ngoài cổng làng. Hàn Trọng trở về, biết Tử Ngọc đã chết, chàng vô cùng đau đớn, nước mắt tuôn rời, mang tiền càng tới mộ cúng khấn. Lúc này, vong hồn của Tử Ngọc “bỗng xuất hiện bên cạnh mộ”, rồi nàng mời Hàn Trọng vào trong mộ, “hai người ăn uống cùng nhau, bên nhau ba ngày ba đêm, hoàn thành xong lễ kết vợ chồng.” Có thể ăn uống, có thể cùng chung chăn gối, ngôi mộ đó không chỉ có vong hồn ở được, mà cả người sống (hồn sống) cũng ở được trong đó.
Nhưng nghe nói chính Can Bảo cũng đích thân được trải nghiệm nó. Trong Sưu thần hậu ký, Đào Tiềm, người đời Tấn đã ghi lại câu chuyện về cha ruột của can Bảo, nói rằng sau khi chết cuộc sống dưới mộ của ông không khác gì người thường. Câu chuyện không hề bịa đặt, bởi có người làm chứng. Hóa ra vị lão tiên sinh này lúc còn sống có một người thiếp, ông rất yêu chiều bà, vợ cả của ông liền đem lòng đó kỵ. Lúc chồng còn sống, bà ta giữ gìn đức hạnh, không cho ai biết mình đang đố kỵ, bây giờ chồng đã chết, khi xác sắp được đưa đi chon, bà nói một câu như rất quen thuộc “đưa đến nghĩa địa chôn cùng”, bà ta đẩy người vợ bé xuống mộ rồi chôn sống người đó. Khi đó anh em Can Bảo còn nhỏ, mười năm sau, bà vợ cả cũng qua đời, Can Bảo đưa mẹ đến chôn cùng với cha, nhưng khi mở phần mộ của cha ra, anh ta phát hiện thấy người vợ nhỏ vẫn đang nằm sấp trên nắp quan tài, và kỳ lạ là bà vẫn còn thở. Can Bảo dùng xe đưa bà vợ bé của cha về nhà, chăm sóc một ngày bà mới tỉnh lại. Bà kể về cuộc sống của bà với chồng trong mộ, nói hai ông bà “ăn uống cùng nhau, ngủ cùng nhau, ân tình như khi còn sống”. Trong Tấn thư - Can Bảo truyện cũng nhắc tới sự việc này, còn nói một câu “dưới âm phủ chuyện đó không có gì là xấu hổ cả”. Hơn mười năm, đến thứ tùy táng trong mộ cũng mục nát cùng thi thể, nhưng sở dĩ người vợ bé đó “không thấy xấu hổ” là vì bà đã cảm nhận được một thế giới khác, tất cả những đồ dùng, nhà ở đều không có gì khác với dương thế. Những thứ đó người sống không nhìn thấy, nhưng người vợ bé đó có thể đã bị ám một chút quỷ khí, nên bà có thể nhìn thấy những thứ mà chỉ ma quỷ mới nhìn thấy. Sau khi sống lại, năng lực siêu nhiên của ma quỷ trong bà cũng chưa hoàn toàn tiêu tan, vì thế bà còn có thể dự đoán cho người ta về những điều lành, điều dữ sẽ xảy ra, và tất cả đều rất linh nghiệm.
Trong Sưu thần hậu ký còn có một chương kể về Phạm Khải đi tìm mộ người mẹ đã chết, ông chỉ thấy “những ngôi mộ nằm san sát nhau, rất khó phân biệt, không biết đâu là mộ của mẹ mình”. Thế là ông tìm đến một người có thể nhìn thấy ma, người này đến chỗ bãi tha ma, nói có người trong mộ mặc quần áo, trang điểm như thế này như thế kia. Phạm Khải nghe thấy thế có vẻ đáng tin, bèn đào ngôi mộ đó lên, bên trong chỉ thấy một bộ áo quan rách nát, đất bám dày hàng tấc. Đang chần chừ không biết làm thế nào thì ông nhìn thấy một viên gạch bên trong chỗ đất đó, bên trên có khắc vài chữ “Phạm Kiên chi thê” (Vợ của Phạm Kiên). Như vậy, người nhìn thấy ma kia đã nhìn thấy vong hồn bà mẹ Phạm Khải, tuy người bình thường chỉ nhìn thấy hài cốt bên trong ngôi mộ hoang, nhưng thực ra vong hồn đó lại mặc quần áo chỉnh tề, sống trong một ngôi nhà lớn khang trang dưới lòng đất.
Người Nam Triều từng nói như vậy, người Bắc Triều cũng nói như vậy. Trong quyển Đông Hoàng thực lực của Lưu Bính, người thời Bắc Ngụy có kể một câu chuyện như sau: “Sau khi đại tướng quân Bắc Ngụy Vương Phiền qua đời, ông cùng mấy “người” đánh bài, uống rượu trong mộ của mình. Một tên trộm mộ “không có mắt” đào mộ lên, hắn tròn mắt, đờ người khi nhìn thấy bên trong là cảnh đèn lửa sáng trưng. Vương Phiền sai tùy tùng đưa cho hắn một ly rượu, hắn không dám không uống, nhưng đúng lúc hắn định chuồn ra ngoài bỗng nhìn thấy một người dắt con ngựa đồng tùy táng đi ra phía cửa mộ. Hóa ra người này đi báo quan phủ, anh ta nhanh chóng đến trước cổng thành, nói với lính gác cổng thành rằng: “Ta là lính của tướng Vương Phiền, hôm nay có kẻ tới đào trộm mộ, ta đã dùng rượu nhuộm đen môi hắn, ngày mai hắn đến đây, hãy kiểm tra rồi bắt lại.” Khi tên trộm mộ đến cổng thành, người lính gác nhìn thấy môi hắn đen xì, liền tóm gọn giải đi. Mộ của Vương đại tướng quân giống hệt như phủ đệ của ông ở chốn dương gian, ở đó linh hồn của ông vẫn tiếp tục cuộc sống hưởng lạc và đầy uy nghiêm.”
Còn mộ phần của người dân thường lại chính là ngôi nhà nhỏ xinh, hàng xóm vẫn thỉnh thoảng qua lại hỏi thăm nhau. Quyển Bác dị chí của Cốc Thần Tử, người thời Đường có kể câu chuyện của một viên lại huyện Hứa Châu, tên là Lý Trú. Nửa đêm, khi Lý Trú đang đi trên đường, bỗng nhìn thấy trên ngôi mộ bên đường có một cái lỗ to bằng chiếc đĩa, trong đêm, từ khe lỗ đó lộ ra ánh sáng đèn. Ông lập tức xuống ngựa bước tới gần, từ bên ngoài nhìn vào, “thấy năm người phụ nữ mặc trang phục người Hán, họ tụm lại với nhau dưới ánh nến, tay không ngừng khâu vá”. Cảnh tượng đó chẳng khác gì những cô gái thôn quê tập trung lại một chỗ để thêu thùa, vừa tiết kiệm dầu đèn vừa đỡ buồn tẻ. Nhưng Lý Trú đã phá vỡ khung cảnh đó, ông hắng giọng một tiếng, làm các cô gái sợ hãi biến mất, cuối cùng chỉ còn lại một màn đêm dày đặc.
Nếu là một bãi tha ma, vậy thì đó đương nhiên là một làng hoặc một thị trấn. Trong cuốn Thanh tỏa cao nghị của Lưu Phủ, người đời Bắc Tống có một chương ghi chép về “nghĩa địa ký”: “Thư sinh Vương Xí, đêm hôm đi qua Từ Châu, trời tối đen như mực, anh ta bị lạc đường. Nhìn thấy phía xa xa có đốm lửa bập bùng, anh ta liền tiến về hướng có đốm lửa để tìm chỗ nghỉ đêm. Quả nhiên tìm thấy một làng nhỏ. Vương Xí xin ngủ nhờ trong nhà một ông lão, hỏi rằng: “Đây là nơi nào?” Ông lão trả lời rằng: “Thôn Tùng. Thôn này do một nhà giàu lập nên.” Ngày hôm sau, Vương Xí cáo từ, đi được một quãng thì gặp một người nông dân, lại hỏi: “Chỗ này đi từ bắc sang tây khoảng năm lý, có một làng nhỏ có chợ búa, nhà cửa, đó là chỗ nào?” Người nông dân trả lời: “Chỗ đó là bãi tha ma, không có nhà cửa, chợ búa gì cả.” Vương Xí giật mình nhớ lại việc đêm qua mình ngủ trong nghĩa địa, nằm giữa đám mộ mà không hề biết mình đang ở đâu. Có thể thấy, khi màn đêm buông xuống, những bãi tha ma không chỉ là nơi trú ngụ của ma quỷ, mà còn có thể biến thành thị trấn, làng mạc trong mắt người dương. Những câu chuyện như thế tồn tại không ít và được ghi chép lại trong các cuốn sách sử, nhưng vẫn không làm cho người ta cảm thấy thỏa mãn, có lẽ bởi chúng cũng chỉ là những sự việc ngẫu nhiên, không thường xuyên xảy ra.
Cũng chính quan niệm này đã gợi ý cho tầng lớp thống trị trong xã hội phong kiến dùng những cách vô cùng tàn nhẫn và vô nhân đạo để đối với những ai chống đối chúng. Ngoài việc dồn kẻ thù vào chỗ chết, chúng còn phải đào hết mộ phần tổ tiên của họ lên, mang xương cốt vứt đi hết. Nếu vẫn cảm thấy chưa thỏa mãn, chúng còn đào một cái hố sau ngay trên chính mộ phần đó, rồi đổ đầy nước thải, ném thêm xác chó mèo chết vào đó, như vậy sẽ đuổi hồn ma ra khỏi mộ phần, từ đó không còn chỗ dung thân nữa. Qua đây có thể thấy, việc chu di cửu tộc đối với những kẻ phản loạn vẫn không thỏa mãn được lòng dạ độc ác, thói tàn nhẫn của các vị hoàng đế ngày xưa, mà họ còn thực thi triệt để những biện pháp trừng phạt tàn nhẫn đến cực điểm, không chỉ khiến cho kẻ thù đoạn tử tuyệt tôn mà ngay cả tổ tiên đã mất của họ cũng không chịu buông tha.
Nhân đây cũng xin đưa ra một quan niệm khác cũng liên quan đến nơi trú ngụ của các linh hồn, nơi đó được mang tên “địa phủ”. Đây là một nơi đô hội sầm uất, và trung tâm là đám nha môn của Diêm Vương. Nơi đó không có sự xuất hiện của những ngôi làng, những mảnh vườn, hay những cánh đồng lúa bao la, bước vào địa phủ là chúng ta bước vào một cuộc sống mới, khiến cho người ta cảm thấy dường như đó mới chính là cuộc sống lý tưởng của mình. Tác gia nổi tiếng thời Tống, Lưu Nghĩa Khánh, trong cuốn U Minh ký có ghi lại một câu chuyện mang màu sắc Phật giáo rất rõ nét: “Ở huyện Ba Bắc có một thầy pháp sư tên là Thư Lễ bị chết, được thần Thổ Địa áp giải đến Quân sở phủ Thái Sơn. Trên đường đi, hai bên đường đều là nhà cửa, đếm sơ sơ cũng phải hàng nghìn ngôi nhà, “giai huyền trúc liêm, màn trời chiếu đất, nam nữ ở hai khu phân biệt. Người ca hát, kẻ ngâm thơ, vui vẻ vô cùng”. Những người sau khi chết lại được sống một cuộc sống vui vẻ, ấy đều là các tín đồ Phật giáo, nhưng thầy pháp sư kia lại không nằm trong số đó nên đành chịu sự áp giải của đám đầu trâu mặt ngựa đi hành hình. Niềm vui bất tận của các linh hồn đó chỉ đơn giản là ăn cơm rồi tụng kinh, tụng kinh rồi lại ăn cơm, còn về cuộc sống của họ thì đương nhiên không tồn tại khái niệm “gia đình”, vì nam nữ không được phép chung ***ng. Đến đây lại khiến người ta nhớ đến chế độ Thiên triều của Hồng Tú Toàn với hai cung phân biệt, Nam Cung và Nữ Cung, hóa ra đây cũng không hẳn là những dị giáo hoang đường, mà trong quan niệm dân gian Trung Quốc từ lâu đã mơ ước về một cuộc sống như thế.
Nhưng nếu tưởng rằng sự xuất hiện của các khu ở tập thể nơi âm phủ đó là do chịu sự chi phối của chế độ tăng lieu từ các tự viện thì cũng không hoàn toàn đúng. Tác gia đời Đường, Đới Phu trong Quảng dị ký có ghi chép về “Kiềm nhĩ Hàm Quang”, kể rằng vợ của Ngôn Hàm Quang chết khi còn rất trẻ, một lần lên chùa Trúc Sơn bái Phật, chàng tình cờ gặp được âm hồn của vợ mình là Lục Thị. Hai người gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chàng liền hỏi thăm tình hình của vợ, Lục Thị chỉ tay bảo chồng nhìn sang hướng bắc, thấy có một tòa thành lớn, đó chính là nơi ở của Lục Thị sau khi chết. Sau khi vào thành, “phòng ốc tráng lệ không khác gì những tòa nhà lộng lẫy chốn nhân gian. Bên cạnh có một ngôi viện, trong viện đi về phía tây có mười gian phòng, Lục Thị sống ở căn phòng thứ ba”. Hai người chia tay nhau, ngày hôm sau Hàm Quang lại đến thăm vợ. Không ngờ ngồi còn chưa ấm chỗ thì một vị sử quan mặc áo gấm dẫn theo chục người hầu xông vào trong viện. Lục Thị vội vã bảo Hàm Quang chui xuống gầm giường để trốn. Nàng lắng nghe, thấy bên ngoài có tiếng thét lớn: “Lục Tứ Nương!” Lục Thị vội vã chạy ra. Lúc này trong viện đang có tất cả hai mươi tám cô gái, viên quan liền sai thuộc hạ giật hết búi tóc của họ ra, trói hai người một lại với nhau, ném vào nồi nước đang sôi sùng sục, cứ thế đun cho đến khi lửa tắt, đám quan sai mới rời đi. Các cô gái sau khi chịu xong hình phạt, liền lảo đảo ai về phòng người nấy. Có lẽ các bạn có thể nhận ra, đây cũng được coi là một khu nhà tập thể, nhưng nói một cách chính xác hơn, chỗ này không khác gì một khu trại giam nữ.
Vì thế, địa phủ, thực ra chỉ là sự cải tạo, thay đổi từ nhà ngục trần gian của Trung Quốc đối với thuyết địa ngục của Phật giáo mà thôi. Địa ngục Thái Sơn quả thật là quá tàn khốc, trong tưởng tượng của tôi, nơi đó có những lò lửa cao ngất, san sát như rừng rậm, lửa trong lò lúc nào cũng đỏ rực, khó mù mịt khắp nơi, các linh hồn cứ lần lượt nối đuôi nhau vào trong lò chịu hình phạt, khắp không gian ngập tràn những tiếng la hét, khóc than đau đớn. Cho nên, đôi lúc chúng ta cảm nhận được kiểu nhà tập thể này cũng đầy ắp tình người, chỉ có điều các linh hồn không được tự do mà còn phải chịu sự giáo dục của quan sai, bị nấu trong lò lửa, đúng như ông A Tolstoy, người từng giành giải thưởng Stalin đã nói: “Nếu được ngâm trong nước tinh khiết ba lần, tắm trong máu ba lần, nấu trong nước muối ba lần thì chúng ta sẽ trở nên sạch sẽ đến mức không thể sạch sẽ hơn được nữa.” Nhưng nàng Lục Thị đã được nấu trong lò lửa nửa năm nay, tính ra cũng đã hơn một trăm lần mà vẫn không hết được tội nghiệt, nguyên nhân chỉ là vì trước lúc chết nàng đã quên viết bộ Kim quang minh kinh. Đối với những tôn giáo tà ma như vậy, chúng ta không tin cũng chẳng sao. Vì thế, dân chúng vẫn mong muốn để cho những người thân quá cố của mình được sống trong các ngôi mộ, là ngôi nhà dành riêng cho họ, cho dù như vậy sẽ không có cảnh gia tộc đoàn viên như trong các câu chuyện.
3
Căn cứ để cho rằng mộ là nơi cư trú của các linh hồn chính là bởi các linh hồn trú ngụ trong hài cốt. Hài cốt của người chết ở đâu thì vong hồn của họ ở đó. Nếu người chết không được mai táng, vậy thì linh hồn của họ cũng sẽ theo hài cốt phiêu bạt khắp nơi. Hiện tượng này xuất hiện rất nhiều ở thời cổ đại, như trường hợp bị hổ báo, thú dữ ăn thịt, mất tích, chết ngoài chiến trường, chết trong chiến tranh loạn lạc, bị nhấn chìm bởi những cơn đại hồng thủy hay bị chôn vùi dưới các lớp đất đá… Đây đều là lý do khiến người chết mà vong hồn không có chốn nương thân. Còn những người chết mà không được mai táng, linh hồn sẽ lang bạt khắp nơi giống như những nạn nhân đi tha hương cầu thực vậy, không chỉ làm những người thân trong gia đình cảm thấy bất an mà còn khiến người đi đường cũng cảm thấy xót thương, trật tự trị an ở nơi đó cũng vì thế mà thêm phần phức tạp.