Chương 22: Tương Tây thi cổ (Hạ)

Để ngăn chặn Bạch Dực nói bậy bạ gì thêm, tôi vội vàng cướp lời: “Cháu tên An Tung, là đồng nghiệp và bạn cùng phòng của anh Bạch Dực ạ.”

Bạch Dực không kịp mở miệng, cũng chỉ gật gật đầu ý nói đúng là vậy. Ông chú mỉm cười gật đầu, đẩy đĩa hồ đào ra trước mặt chúng tôi. Bạch Dực lên tiếng hỏi: “Ông, lúc nào lễ giỗ bắt đầu?”

Ông chú hơi cau mày, nét mặt trở nên cực kỳ đau buồn: “Ờ… chắc là các cháu phải đợi… đợi thằng con của ông… ai~”

Vừa nói tới đây thì ông chú đã nước mắt ngắn dài, hóa ra con của ông đi làm xa, lâu lắm không về thăm nhà, sau lại nghe nói không biết vì lý do gì mà đã truyền tới tin dữ nói là anh ta đã chết. Vì thế theo đúng quy tắc của khu trại, ông chú thuê dân cản thi đưa xác con mình về. Dù sao cáo chết cũng quay đầu về núi, người chết cũng phải mang về quê hương mai táng nơi phần mộ tổ tiên.

Tôi và Bạch Dực sửng sốt nhìn nhau, lồng ngực khẽ nảy lên, lẽ nào tay cản thi mà chúng tôi gặp trên đường… lại là thay ông chú đưa thi thể con trai về?

Danh tiếng của ông chú trong vùng này rất tốt, huống chi lại chính là bổn gia, con trai của bổn gia qua đời, chuyện này không thể sơ sài, cho nên ngay cả lễ giỗ mười năm của ông cố cũng phải dời lại, chí ít chờ đứa con tha hương này được đưa về nhà rồi mới cử hành lễ tang luôn thể.

Bởi vì tôi là người ngoài, danh nghĩa chỉ là đi cùng Bạch Dực tới đây tham quan nên chỉ biết nói một câu chia buồn, ngoài ra không làm được gì khác. Ông chú còn có nhiều việc phải chuẩn bị, vừa phải lo lễ tang cho con trai vừa phải lo lễ giỗ cho ông cố nên chỉ kịp ngồi với chúng tôi uống một chén cháo rồi lại phải vội vã đi.

Cả đêm hôm qua không được chợp mắt, lại phải đi quá nhiều, nên hiện giờ tôi không còn sức lực đâu mà du sơn ngoạn thủy nữa. Huống chi vì có lễ tang nên không khí xung quanh cũng rất khó thở, hoàn toàn không có chút nào vui mừng của dịp đầu năm mới. Tuy thế, những gia đình cư ngụ trong khu trại cũng tiếp đón chúng tôi rất chu đáo, không hề bê trễ.

Tôi thấy mọi người xung quanh bận rộn qua lại, chỉ biết ngồi đờ ra một chỗ cạnh Bạch Dực nói chuyện. Ăn xong bữa trưa, cũng có đi chung quanh khu trại tham quan một chút, khắp nơi trong trại đều dựng nên những căn lều to nhỏ khác nhau để chuẩn bị lễ điển. Tuy nói bây giờ đã hiện đại lên nhiều, nhưng ở vùng này vẫn duy trì tập quán mời thổ ty tới cử hành những nghi lễ quan trọng, chỉ có quả phụ và phụ nữ có thai là không được phép tham dự. Những người ngoài như tôi chỉ được đứng ngoài nhìn, không thể cùng những người trong trại tham gia hay chuẩn bị cho nghi thức.

Thời gian trôi qua trong buồn chán, phong cảnh xung quanh thực sự rất đẹp, nhưng tôi không có sức đi quá xa. Nghi thức bên ngoài càng hấp dẫn hơn, nhưng người ngoài lại không được can thiệp. Bạch Dực cũng bị coi như khách, chỉ đi thăm vài người họ hàng rồi thôi, không có chuyện gì làm, hai chúng tôi đành đi dạo loanh quanh gần khu trại.

Cho đến khi có người gọi chúng tôi về ăn cơm chiều, chúng tôi mới theo mấy đứa trẻ trong khu trại quay về, bữa cơm rất phong phú, toàn là đặc sản Tương Tây: có thịt khô xào rau dương xỉ, bắp rang, huyết ba áp[1] , cá chua cay, đặc biệt là những món cá của bọn họ, cực kỳ ngon miệng. Nhưng có lẽ là do ngày mai cản thi sẽ tới nơi nên mọi người đều có hơi bồn chồn, đặc biệt là ông chú, giấu không được sự đau khổ. Có lẽ chúng tôi và con trai ông không cách nhau bao nhiêu tuổi, nên khi nhìn chúng tôi mắt ông ta lại nhòe đi, lúc uống rượu lại dùng tay áo âm thầm gạt nước mắt.

Chúng tôi cũng không biết phải nói gì, dù sao người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh cũng là một nỗi đau khổ khó sánh trong thiên hạ. Ăn xong, chúng tôi quay về gian phòng ngủ đã được chuẩn bị ình, chúng tôi không thể ngụ lại trong khu nhà chính vì trong đó bây giờ đã được trang hoàng sửa soạn cho lễ tang, đầy đồ vàng mã, không ai dám cho chúng tôi ngủ cùng nơi với những đồ vật của người chết, nên chúng tôi được chuẩn bị ột gian phòng ở mé sau. Tuy nói là nhà sau, nhưng được quét tước dọn dẹp sạch sẽ, chăn nệm đều là đồ mới.

Tôi hoạt động cả một ngày đêm, nên cơm nước tắm rửa xong là lập tức chui về phòng nằm duỗi dài người không muốn động đậy nữa. Toàn bộ cơ thể lúc này mới ẩn ẩn đau nhức không thể cử động lấy một ly, chỉ có cái miệng thở đều đều, trông rất giống một con cá mắc cạn.

Có người nói là một ngày đêm trước khi cản thi đưa thi thể về tới nhà, thân nhân của người chết sẽ nằm mơ thấy người chết về nói cho người nhà biết thi thể của mình đã trèo đèo lội suối về nhà để gia đình chuẩn bị lễ tang. Kỳ thực phong tục của người Thổ Gia thường quàn quan tài trong nhà vài ngày trước khi đem chôn, nhưng nếu là do cản thi mang về thì phải lập tức hạ táng ngay, vì thi thể hư thối rất nhanh, mùi hôi thối đó người sống không thể chịu nổi.

Chỉ trong vòng một ngày đêm mà tôi đã được tận mắt chứng kiến hai nghề nghiệp quái lạ nhất Tương Tây là cổ độc và cản thi, cho nên lúc này trong đầu vẫn còn quay cuồng suy nghĩ, huống chi ngoài cửa người qua lại vẫn còn tấp nập, đèn đuốc sáng trưng, cho thấy bọn họ bận rộn tới mức nào. Tuy không phải là con cái ruột thịt trong nhà, nhưng tất cả những gia đình trong khu trại đều là sinh hoạt gần nhau, con cái cũng lớn lên bên cạnh nhau, con người khác cũng như con của mình, sao có thể làm ngơ lúc này?

Tôi nằm thườn thượt trên giường như con cá chết, xung quanh là một bầu không khí xa lạ, nhưng lại rất yên tĩnh. Nhìn qua khung cửa sổ vuông vức trên đầu, thấy bên ngoài đã tối sầm. Ngọn đèn trường mệnh thắp xa xa như dẫn lối cho linh hồn tha hương quay về quê nhà. Trong phòng ấm áp, chăn nệm cũng thoải mái, tôi nặng nề trở mình, mí mắt dần dần díp lại. Mơ hồ nghe có người đẩy cửa vào, tôi nhắm mắt, biết là Bạch Dực, nghe anh ta nhẹ nhàng hỏi: “Ngủ rồi à?”

Tôi ậm ừ một tiếng, sau đó ý thức dần dần chìm vào cơn buồn ngủ ập tới như sóng triều.

Nửa đêm tôi đột nhiên tỉnh lại. Không biết tại sao, rõ ràng là rất mệt mỏi rất buồn ngủ, vậy mà tự nhiên không sao ngủ tiếp được nữa, tôi đứng dậy, nhìn thấy Bạch Dực đang ngủ rất say trên cái giường sát vách.

‘Hay là tại lạ chỗ…?’ Tôi nghĩ thầm, mặc thêm áo khoác ra bên cửa sổ đẩy chấn song ra, một cơn gió lạnh lập tức thốc vào. Tôi siết chặt thêm y phục, nơi này quả là một nơi thế ngoại đào nguyên xa rời đô thị đông đúc chật chội, nhưng lại đơn độc tồn tại giữa một vùng trời nước bao la, tự nhiên khiến người ta có cảm giác bức bí bé nhỏ. Bốn phía đen như mực, ánh trăng lẻ loi xa xa không đủ để soi sáng, trời nặng tầng tầng mây, không khí bị sự yên lặng tuyệt đối ngự trị. Tôi hít sâu mấy hơi, chuẩn bị đóng cửa vào ngủ lại, nhưng lúc tay đặt lên khung cửa lại đột nhiên phát hiện dưới ngọn đèn trước cửa lều tang có một bóng người, tôi thầm nghĩ, giờ này còn có người vất vả ở dưới, quả nhiên là lễ long trọng.

Nhờ ánh trăng nhàn nhạt, tôi có thể nhìn thấy ít nhiều mọi chuyện diễn ra dưới đất, vì thế nổi lòng hiếu kỳ, nheo nheo mắt chăm chú quan sát bóng người dưới ánh đèn, nhưng vừa nhìn thấy kỹ thì tôi đã sợ tới mức giật nảy cả người. Thứ đang lang thang dưới kia… không thể gọi là “con người” được, đầu và tứ chi của nó là người, nhưng thân thể ở giữa đã biến dạng tới mức thê thảm cực kỳ. Tôi cố nén cảm giác buồn nôn cuồn cuộn trong dạ dày, nhưng thứ kia quả thực quá mức ghê tởm, thân thể của nó căn bản chỉ là một đống thịt nhầy nhụa, ruột lòi cả ra ngoài, thậm chí có thể thấy những phần xương sườn trắng hếu lộ ra ngoài qua đống da thịt nham nhở, trông còn kinh khủng hơn cả zombie. Nó dường như đang lang thang vô mục đích xung quanh mấy căn lều ở dưới, miệng há hốc ngáp ngáp như đang gào thét cái gì, nhưng không hề phát ra thanh âm. Được một lúc, nó lảo đảo chạy ra trước nhà lớn liều mạng dập đầu lia lịa, da thịt trên người cũng theo đó mà rơi rụng. Trên mặt đất xung quanh nó đã đầm đìa máu, trông cực kỳ quỷ dị lẫn ghê rợn.

Tôi chưa từng bao giờ gặp phải cảnh tượng kinh hoàng đến thế, cả người run bần bật bấu chặt vào tấm mành cửa sổ nhìn. Khi tôi run rẩy chuẩn bị đóng cửa sổ để khỏi nhìn thấy nữa thì… trên bệ cửa sổ chợt xuất hiên một… cái đầu! Tôi quýnh lên nhìn xuống thân người dưới mặt đất, nó vẫn đang dập đầu, nhưng đầu… đầu không còn nữa!

Cái đầu đặt trên cửa sổ sưng phù, to lớn khác thường, bảo đó là cái đầu chi bằng nói nó là một đống thịt còn đúng hơn. Hai mắt nó đảo ngược trắng dã nhìn tôi, từ cái đầu tỏa ra từng trận mùi hôi kinh người. Miệng nó há hốc ra, bên trong lúc nhúc những con sâu đen bóng bò lổn ngổn, vì trong miệng toàn là sâu, nên dường như nó không nói được, chỉ thấy sâu đen phun ra không ngừng.

Cảm thấy cái đầu to tướng này chẳng qua chỉ là một cái ổ sâu không hơn không kém, tôi bụm chặt miệng liều mạng thối lui về phía sau, chỉ sợ có con sâu nào bò lên người. Đột nhiên tấm bùa mà ông lão trên xe lửa đã cho tôi để trong túi áo trước bất thình lình bốc cháy. Tôi hốt hoảng móc ra vứt ra ngoài, tất cả những con sâu đụng phải lá bùa đều xèo xèo bốc cháy theo, đám còn lại hốt hoảng chạy ngược lại về phía cái đầu, sau đó cái đầu chao một cái lăn ra khỏi cửa sổ rơi xuống dưới rừng cây bên dưới, chỉ còn nghe thấy những tiếng lộc cộc trong đêm khi nó lăn đi càng lúc càng xa.

Đột nhiên tôi cảm thấy cả căn phòng dường như rung lắc dữ dội, hai bên má truyền tới cảm giác đau đớn, bên tai nghe thấy tiếng Bạch Dực mơ hồ mà cấp thiết: “Này! Tỉnh! Tỉnh mau!”

Khi tôi mở mắt ra, nhìn thấy lão Bạch đang ngồi bên cạnh, một tay đỡ đầu tôi dậy, tay còn lại đánh mạnh lên hai bên má tôi. Cảm giác đau tê dại trên mặt khiến tôi thoáng chốc tỉnh lại, nhìn quanh bốn phía không còn cái đầu nào nữa, cũng không có những con sâu màu đen bò lúc nhúc, tôi vẫn đang yên ổn nằm trên giường mình.

Hành động đầu tiên của tôi sau khi lấy lại ý thức là… vươn tay tát Bạch Dực một cái, vì anh ta rõ ràng là đang nhân cơ hội đánh tôi mà! Tôi đẩy mạnh Bạch Dực ra, bụm mặt gào lên: “Sao tự nhiên đánh tôi!”

Anh ta phát điên che bên má bị đánh mà gằn lại tôi: “Câu đó phải là tôi nói mới đúng! Nếu tôi không đánh cho cậu tỉnh lại thì lúc này cậu đã té lăn xuống giường rồi! Làm sao vậy hả?! Gặp ác mộng gì?”

Tôi lấy tay đè huyệt Thái Dương đang nhức bưng bưng, đầu óc vẫn còn hơi choáng váng, nhưng cảm giác rõ ràng xung quanh có vẻ có thực hơn lúc nãy. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng về phía căn lều có ngọn đèn treo trước cửa, dưới ánh đèn tù mù không có bóng ai, chỉ có một hai con thiêu thân bị ánh sáng đèn hấp dẫn mà bay vè vè xung quanh.

Cả người vì quá sợ mà đầy mồ hôi lạnh, tóc cũng ướt sũng, tôi đưa tay chầm chậm vuốt mặt mình, lại nhịn không được mở miệng ra kiểm tra xem có con sâu nào bên trong hay không. Tuy chỉ là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ quá mức chân thực, thật không hiểu vì sao lại làm ra giấc mơ kinh dị đến như thế.

Tôi dại ra ngồi đờ trên giường, Bạch Dực đi rót cho tôi một ly trà, đến lúc đó tôi mới phát hiện ra lá bùa cất trong túi áo ngoài đã hóa thành một đống tro tàn tự lúc nào, nhưng y phục không hề bị ảnh hưởng mảy may, làm như lá bùa tự thiêu cháy vậy. Bạch Dực cũng nhìn thấy, nhưng vẫn không nói gì. Tôi uống một hơi cạn sạch ly nước ấm, nhưng vẫn cảm thấy cổ họng khô khốc, vì thế Bạch Dực lại đứng lên rót thêm cho tôi một ly nữa.

Tôi nhỏ giọng kể lại toàn bộ giấc mơ lúc nãy cho Bạch Dực nghe, anh ta trầm ngâm ngồi bên cạnh giường tôi, càng nghe chân mày càng cau lại. Cuối cùng, tôi lo lắng hỏi: “Lão Bạch… chẳng lẽ tôi trúng phải cổ độc rồi sao…?”

Bạch Dực lắc đầu: “Không, hình như không phải, đây là một loại báo mộng, nhưng mà…”

Anh ta không nói hết câu, chỉ vỗ vỗ đầu tôi nói: “Thôi đi ngủ tiếp đi, chắc không còn gì xảy ra nữa đâu.” Tuy nghe anh ta nói thế, nhưng trong lòng tôi vẫn phập phồng run sợ, huống chi cảm giác cả người như nhũn ra sau khi gặp ác mộng làm tôi cảm thấy lạnh hơn hẳn, chỉ cuộn chăn bao kín người nằm nghe ngóng, không dám ngủ lại. Nghiêng đầu sang nhìn Bạch Dực, tôi thấy anh ta cũng không ngủ, ánh mắt lạnh lùng điềm tĩnh đến đáng sợ cho thấy anh ta đang suy nghĩ rất lung về cái gì đó. Nhìn anh ta như thế, lòng tôi càng thêm sợ hãi: rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra vậy?

Chẳng bao lâu thì có người tới gõ cửa, báo là con trai của ông chú đã “trở về”. Tôi và Bạch Dực giật mình nhìn nhau, sau đó vội vàng mặc quần áo cùng nhau ra ngoài xem.

Trước cửa khu trại đã chật ních người đứng chờ, bây giờ vẫn còn là giữa đêm, đám đông người bao xung quanh khe khẽ bàn tán với nhau. Có người nhịn không được đã bắt đầu bật khóc thút thít, ngoài đường, người cản thi một tay vung chuông đồng, một tay rải tiền âm phủ đang chầm chậm tiến tới. Mọi người vừa nhìn thấy thi thể phía sau thì đã có người bắt đầu gào khóc thảm thiết. Rằng quả thực con trai của ông chú đã trở về…

Người cản thi nhận ra hai chúng tôi giữa đám đông người, nhưng chỉ nhìn một cái rồi không nói không rằng đưa con trai ông chú về phía lều chứa quan tài. Tôi bíu lấy cánh tay Bạch Dực thì thào: “Quái vật tôi nằm mơ thấy ban tối… hình như… hơi giống con trai ông chú…!”

Bạch Dực khẽ giật tay ra, thì thầm trả lời: “Đừng nói ra, nghề cản thi ở đây được coi trọng lắm, ngay cả Đại thổ ty cũng phải nể ông ta vài phần đấy.”

Quả không sai, cả ông chú lẫn thổ ty đều đích thân ra nghênh đón, hai vợ chồng ông chú vừa nhìn thấy thi thể thì đã bắt đầu khóc rống lên. Nhưng đứa con trai của bọn họ chỉ theo tay cản thi đi thẳng về phía gian phòng chuẩn bị lễ tang cho cậu ta mà không buồn nhìn cha mẹ mình lấy một cái.

Quá trình khâm liệm chỉ có thể do một mình người cản thi đích thân thực hiện, người bên ngoài tuyệt đối không được nhìn trộm, ngay cả thân nhân của người chết cũng không được ngoại lệ, lúc đem thi thể “đỡ tới” quan tài cũng chỉ được thực hiện giữa đêm khuya, không được cho ai thấy. Nghe nói là do lúc nhập liệm, cản thi phải thực hiện nghi thức “khởi hồn”, nếu lúc đó có người sống đứng bên cạnh thì có thể khiến thi thể bị động, gọi là “kinh thi”, người sống có thể không được an bình, chưa kể tới khả năng người chết hóa thành cương thi.

Thế nhưng tôi càng nghĩ càng thấy không ổn, người trong mộng kia nhất định là thi thể này, mà tại sao cậu ta lại phải báo mộng cho tôi?

Mọi người đứng chờ ngoài phòng, khắp nơi đều là tiếng khóc nức nở, tôi và Bạch Dực đứng ngay kề cửa nhìn chăm chăm vào cánh cửa đóng kín, đây chính là vị trí mà tôi mơ thấy quái vật lang thang đêm qua. Ngọn đèn đã chập chờn muốn tắt, xung quanh lạnh hẳn đi, tiếng khóc than xung quanh càng vì thế mà ai oán bi thương. Lúc này là lúc đêm sâu nhất, bốn phía đen thui như mực, ngay cả mảnh trăng khuyết ban tối cũng đã bị che khuất bởi tầng tầng mây đen, trong lòng tôi càng lúc càng bất an, nghĩ thầm chắc hẳn có gì quỷ dị ở đây.

Qua hồi lâu, cản thi đi ra, Đại thổ ty bước tới để trả công cho ông ta, người nhà cũng cho tiền lì xì, cản thi nhận tiền xong liền bảo mọi người có thể vào xem mặt người chết. Ông chú kích động vội vã chạy vào, đoàn người bên ngoài, có cả chúng tôi cũng hộc tốc theo sau, thi thể nằm trong quan tài lúc này đã không còn cảm giác quỷ dị như lúc nãy nữa, mà thực sự biến thành một thi thể bình thường, nằm ngay ngắn, sắc mặt trắng nhợt lạnh như băng, trông như vừa đặt lưng xuống ngủ.

Vợ chồng ông chú vừa nhìn thấy đúng là con trai mình lập tức lăn ra khóc, nhưng tôi vẫn cảm thấy quang cảnh có gì đó hết sức kỳ quái. Cản thi đứng tựa lưng vào cửa, vẻ mặt thản nhiên lãnh đạm như thể đã nhìn mãi thành quen. Bạch Dực vẫn nhìn thi thể chăm chú, đột nhiên dường như phát hiện ra cái gì, anh ta nhanh chóng xăm xăm bước tới định đụng vào tử thi, cản thi lập tức quát lên: “Không được đụng!”

Tròng kính của Bạch Dực thoáng xẹt qua một tia hàn quang, anh ta cười nhạt hỏi: “Sao lại không được?”

Trường sam vốn là một gã đàn ông xấu xí, lúc này cặp mắt ốc bươu trừng to càng giống như hung thần muốn giết người, tất cả mọi người nín bặt không dám lên tiếng, chỉ oán hận nhìn Bạch Dực, nhưng vì chúng tôi là khách của bổn gia nên bọn họ không dám cả tiếng mắng. Ông chú hai mắt đỏ ngầu tập tễnh bước ra, khàn giọng hỏi: “Tiểu Dực, có chuyện gì vậy?”

Bạch Dực đưa tay đẩy gọng kính, lạnh lùng cười: “Ta nên gọi ngươi là ‘sư phụ’, hay là ‘tên lừa đảo’ đây?!”

Gương mặt xám xịt của trường sam lộ ra vẻ hung dữ khác thường, hắn tàn bạo gầm lên: “Đồ nhãi ranh không biết nặng nhẹ! Dám đụng vào xác chết để cho nó hóa thành cương thi, tất cả người trong khu trại các ngươi đều phải chết!”

Mọi người vừa nghe tới cương thi thì toàn bộ khu trại đều cả kinh, bắt đầu xì xào bàn tán, ông chú vội vàng kéo Bạch Dực lại nói: “Cháu ơi là cháu, đừng gây sự nữa, đây là đại sự ảnh hưởng tới toàn khu trại đó!”

Gương mặt tuấn tú của Bạch Dực hiện lên vài phần tức giận, rất ít khi tôi nhìn thấy anh ta để lộ ra vẻ mặt đáng sợ đến vậy, anh ta trừng trừng nhìn trường sam, hỏi tôi: “Tiểu An, có biết tại sao cậu lại nằm mơ như vậy không?”

Nhắc tới giấc mơ ban tối, cả người tôi lại run lên, ánh mắt mọi người trong khu trại đồng loạt chĩa sang tôi, tôi bị mọi người chú mục nhìn, cảm thấy có hơi lúng túng, bèn cắn răng hỏi lại: “Vì sao?”

Trường sam vừa nghe thế thì thoáng giật mình, vẻ mặt kinh hãi trừng trừng nhìn tôi như thể đang tự hỏi vì sao tôi lại còn sống đứng đây vậy. Bạch Dực chỉ chờ có thế, liền nhanh chóng tiến tới bên quan tài, lúc mọi người còn đang trợn mắt chưa kịp phản ứng thì anh ta đã nhanh như chớp vươn tay tới, giật mạnh áo liệm ra.

Chúng tôi lập tức kinh hoàng đến không thốt nổi lời nào, tất cả mọi người đều há hốc miệng, bà thím hét lên một tiếng ngã lăn ra ngất xỉu. Mọi người chung quanh cũng theo đó mà bắt đầu gào thét nhốn nháo. Thi thể nằm trong quan tài… rõ ràng chỉ là một khối gỗ. Chỉ có tứ chi và cái đầu là đúng là của thi thể.

Mọi người đều hét lớn hoặc khóc òa lên. Những mẩu tay chân bị cột chặt vào bốn mấu gỗ, mặc áo liệm ra bên ngoài, thoạt nhìn không thể biết bên trong là cái gì. Bạch Dực lạnh lùng gằn giọng: “Đây chính là nguyên nhân cậu gặp ác mộng đấy!”

Lại nhìn trường sam một cái, anh ta tiếp tục: “Bởi vì ông ‘sư phụ’ này… à không, phải nói là hai người mới đúng, bọn họ không phải là dân cản thi, mà chỉ là những kẻ khiêng xác chết mà thôi!”

Trường sam thối lui muốn đào tẩu, nhưng cánh cửa đã lập tức bị mấy thanh niên Thổ Gia lực lưỡng đứng chặn lại. Ánh mắt lạnh lùng của Bạch Dực nhìn chằm chằm về phía hắn, tiếp tục nói: “Ngươi để cho đồng bọn của mình đội cái đầu của thi thể lên, sau đó giả vờ như thi thể đi trên đường. Tới nơi rồi thì các ngươi đem tay chân giấu trong bao ra cột vào đầu gỗ giả làm xác chết, còn thi thể thực sự chắc đã bị các ngươi ném vào một nơi hoang vu nào đó rồi nhỉ!”

Trong cổ họng trường sam chợt phát ra những tiếng lục cục gầm gừ, một lúc sau, chợt nghe hắn cười gằn một tiếng: “Hừ, không ngờ lại bị hai thằng nhãi ranh lật tẩy, bất quá xác chết kia ta không có đem vứt đi, mà là… dùng vào việc khác có lợi hơn rồi!”

Ông chú tức giận tới mức run bắn cả người, ngón tay chỉ vào trường sam hồi lâu, cuối cùng chỉ rít được một tiếng duy nhất: “…Đánh!”

Tất cả mọi người như bị châm lửa, hét lên một tiếng rồi xông lên, thi thể của cậu con trai coi như đã mất, cho dù bây giờ có bắt tên lừa đảo kia trả lại thi thể thì cũng đã bị phân năm xẻ bảy, làm sao còn có thể gọi là di thể được nữa?

Ông chú trợn mắt to tới mức sắp rách mí, đám thanh niên Thổ Gia đều xắn tay áo vác gậy gộc hò la xông tới, chuẩn bị tóm lấy tên cản thi vô lương tâm mà dần ột trận.

Tôi kinh hoàng đứng nhìn, thầm nghĩ nếu không nghĩ cách can ngăn kịp thì chắc chắn sẽ có án mạng, vì thế chuẩn bị lên tiếng ngăn đám người Thổ Gia lại, nhưng Bạch Dực đã kéo tôi ra sau, tôi thấy anh ta vẫn chằm chằm nhìn trường sam một cách đầy cảnh giác mới để ý, rõ ràng có một đống người hùng hổ xông tới chuẩn bị tóm lấy hắn, vậy mà hắn vẫn cứ thản nhiên đứng yên đó, ánh mắt liếc về phía mọi người ẩn chứa cái nhìn thâm độc.

Nói là nhìn mọi người, nhưng thực ra là nhìn hai chúng tôi, trong mắt đầy ý cười lạnh lẽo khiến người ta phải bất an. Lúc tôi nghĩ hắn chuẩn bị đánh trả, thì một thanh niên Thổ Gia đã dùng gậy gỗ đập một cái thật mạnh lên vai hắn. Cây gậy đập vào mục tiêu vang lên một tiếng “bộp”.

Lập tức cặp mắt của trường sam đảo ngược lên, lộ ra tròng trắng, từ trong miệng hắn hộc ra một đám khói đen mùi tanh hôi lợm mửa. Bạch Dực vừa thoáng thấy thế, lập tức hét lên: “Mau lui lại, đừng đụng tới hắn!”

Đoàn người rất có ý thức cảnh giác, vừa nhìn tay cản thi bắt đầu biến đổi là lập tức tránh ngay ra xa, không ai dám tới gần nữa. Thân thể của trường sam thoắt cái nhũn ra như một cái túi da ngâm nước, tròng mắt hắn đảo bốn phía, trong cổ họng sinh ra tiếng lục cục, trên cổ đùn lên một đống những cục u nho nhỏ chuyển động không ngừng, dường như có cái gì đang chạy bên trong vậy! Trên mặt hắn vẫn lộ vẻ tươi cười, ánh mắt cuối cùng dừng lại trên mặt chúng tôi, trong mắt tràn đầy uy hiếp.

Bạch Dực đỡ người tôi, lạnh lùng nói qua: “Kỳ thực ngươi chỉ là một tên cổ nhân mà thôi, đồng bọn của ngươi chính là một ả vu bà, kẻ hạ cổ độc cho ngươi cũng chính là ả ta, đúng không? Thi thể đã bị ả đem đi chế cổ rồi chứ gì? Ngươi bất quá chỉ là một thứ con rối mà thôi!”

Gương mặt chảy nhũn ra của trường sam càng cười tươi hơn, hắn khanh khách bật cười to. Hai bên má của hắn dần dần sưng phồng lên, lổn nhổn cục u, khoang miệng há hốc ra, trong nháy mắt, từ trong miệng hắn phun ra một đống sâu, nhiều tới nỗi trong thoáng chốc đã bao trùm hết cả gương mặt hắn, chỉ còn một đôi mắt độc ác vẫn nhìn chúng tôi chằm chằm. Dân trong khu trại đều nhốn nháo bỏ chạy, những người ở bên trong thì ép sát người vào những góc phòng, run sợ ôm chặt người, chỉ sợ đám sâu này bám lên mình. Ông chú đứng cạnh chúng tôi đã sợ tới mức té lăn ra đất, không chạy nổi nữa.

Nhưng Bạch Dực vẫn thản nhiên nhìn kẻ kia dần dần hóa thành một bãi sâu. Anh ta lấy trong túi áo ra tấm bùa ông lão trên xe lửa đã cho chúng tôi, rì rầm vài lời, tấm bùa lập tức tự bốc cháy, tỏa ra một mùi thơm lạ lùng. Bạch Dực ném lá bùa vào giữa đám sâu, lập tức đám sâu chạm phải lá bùa đang cháy cũng bùng cháy theo, dần dần hóa thành một đám lửa vĩ đại đốt toàn bộ đám sâu xung quanh, kể cả cái xác nhăn nhũn của trường sam.

Mọi người kinh hoàng đứng lặng nhìn cảnh tượng đáng sợ trước mắt, trường sam nhanh chóng bị thiêu hết chỉ còn một đám thịt cháy. Một lớp khói đen đặc tỏa ra, hôi thối ghê người. Có nhiều phụ nữ không chịu nổi, lập tức che miệng ói. Cảnh tượng cực kỳ hỗn loạn.

Tôi cũng bị đám khói hun đến nghẹt thở, bưng kín mũi miệng, cố hết sức kiềm chế không nôn ra.

Bạch Dực vẫn nhìn chằm chằm vào đám lửa đang lụi dần, sau đó mới nói với tôi: “Đây chính là thứ mà truyền thuyết gọi là thi độc cổ nhân, nếu không có lá bùa do vị cao nhân trên xe lửa cho, thì rất khó đối phó.”

Không khí trước mắt tôi đã mờ đi, thứ này quả thực còn độc hại hơn cả chất thải công nghiệp, khói của nó khiến tôi gần như không mở nổi mắt. Vất vả lắm tôi mới trấn tĩnh lại được, Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi vài cái, tôi lập tức khoát khoát tay, ra hiệu không việc gì.

Tôi thở dài nhìn một đám tro than lẫn lộn đen ngòm, không còn phân rõ đâu là người đâu là sâu nữa. Thật khó lòng tưởng tượng chỉ mới vài phút trước thôi, nó còn là một con người hoàn chỉnh.

Rõ ràng mọi thứ đều đã được trời an bài từ trước, đã cho chúng tôi gặp được vị cao nhân nọ trên xe lửa. Mà đứa con trai của ông chú cũng không chịu nổi nỗi đau đớn bị đem ra chế cổ, nên suốt đêm quay về báo mộng. Cho nên trong giấc mơ, thi thể của cậu ta mới ghê rợn như vậy. Nhưng tại sao lại là tôi?

Cảm thán cùng nghi hoặc xoay vần trong đầu, tuy tất cả mọi người vẫn còn đang bàng hoàng, nhưng phía chân trời đã bắt đầu hửng sáng. Mấy con gà trống trong khu trại cũng cất tiếng gáy vang, xua tan không khí âm u bốn phía. Bạch Dực quay lại tìm ông chú, ông vẫn còn run lẩy bẩy dựa cả người vào quan tài. Bạch Dực vội vàng tới nâng ông ta dậy, quay lại nhìn thi thể mà nói: “Ông chú, con trai của ông vẫn cần phải hạ táng chu đáo, để cho cậu ta được an tâm mà siêu thoát. Còn đám than ngoài kia, cho người dùng xẻng đào hố chôn thật chặt, tuyệt đối không cho phép bất kỳ ai được chạm vào, vì thi cổ là một loại cổ độc rất âm hàn, sinh lực cũng rất ngoan cường. Tuy cháu đã đốt hết, nhưng có thể ở giữa vẫn còn có một hai con chưa cháy.”

Ông chú vừa nghe thấy thế liền lập tức đứng bật dậy, vội vã gọi mấy thanh niên quanh đó: “Mau! Mau! Đi lấy cái xẻng đào đất chôn hết chỗ tro này cho ta! Sau này không ai được phép tới chỗ này nữa!”

Mấy thanh niên Thổ Gia gần đó gật đầu, nhưng xem ra ai cũng sợ, chỉ nhìn nhau mà không dám ra tay. Mãi mới có người dùng hết dũng khí đào một cái hố to, mọi người cùng nhau lấp kín đống tro lại, tuyệt không để nó lộ ra ngoài.

Ông chú chờ cho đến khi mọi việc xong hết, mới quay lại nước mắt ngắn dài nói: “Con trai của ta quả thực số khổ mà!” Rồi lại ngã xuống bên quan tài khóc một lúc lâu, mãi mới có người tới dìu vào nhà.

Bạch Dực nhìn xung quanh một hồi, rồi mới gật đầu ra hiệu chúng tôi có thể đi. Lúc tôi chuẩn bị rời đi, chợt khóe mắt trái của tôi vô tình thoáng liếc qua cái đầu của thi thể con trai ông chú. Từ trong miệng bò ra một con sâu đen bóng, nhanh như chớp nhảy ra ngoài mất dạng, mà khóe miệng của người chết, trong nháy mắt, nhếch lên thành một nụ cười quỷ dị…

“Đa số côn trùng các loại có thể tích trữ dùng làm lương thực qua ngày, duy chỉ có một thứ côn trùng độc hại người, tức thị là cổ, biến hóa khó lường, một ngày ăn nhằm phải, tất biến thành hậu hoạn.” ———-[Chư bệnh nguyên hậu luận – Cổ độc hậu]

Tương Tây thi cổ – Hoàn


Chú thích về nghề cản thi (Dịch từ bài có cùng chủ đề trên trang web Baidu):

“Cản thi” là một loại phép thuật trong truyền thuyết của dân tộc Miêu Cương có thể sai khiến thi thể hoạt động. Người Miêu chia phép thuật ra làm hai loại: hắc vu thuật và bạch vu thuật, trong đó cản thi thuộc về bạch vu thuật.

“Cản thi” tức là điều khiển thi thể nhảy từng bước từng bước theo sau lưng pháp sư để quay về cố hương. Nhưng không phải là đem thi thể về tới tận nhà, mà chủ yếu chỉ là đưa thi thể đi qua những khu vực núi non hiểm trở, đường xá gồ ghề mà thôi. Đến khi xuống tới những nơi bằng phẳng thì có thể cho thi thể vào quan tài đưa tiếp về nhà.

Cản thi thực ra không ngại ban ngày hay ban đêm, chỉ là để tránh làm người qua đường hoảng sợ cho nên dân cản thi thường chọn ban đêm mà đi, lại càng khiến cho nghề này được khoác thêm một tầng bí ẩn khiến người ngoài sợ hãi.

Cản thi thông thường cần hai người mặc áo bào pháp sư, cho dù có bao nhiêu thi thể đi nữa thì cũng chỉ cần hai người bọn họ (sư phụ và đồ đệ) điều khiển. Hai người không được thắp đèn lồng, trong tay cầm chuông nhiếp hồn, vừa đi vừa rung để người đi đường biết mà tránh xa, nhà nào có nuôi chó thì biết mà xích chó lại. Nếu số thi thể nhiều hơn một thì dùng dây thừng nối các thi thể lại với nhau, mỗi thi thể cách nhau khoảng 6, 7m, lúc đi đêm, các thi thể đều đội mão lông chiên cao, trên trán dán một đạo bùa vàng.

“Khách sạn tử thi”: Trên đường có những khách sạn tử thi, loại “khách sạn” này thực chất là một nơi để cản thi và thi thể dừng lại nghỉ. Cửa khách sạn quanh năm đều mở rộng, nhưng người sống không bao giờ bước vào. Bậu cửa của những nơi này đều rất cao, nên thi thể không thể bước qua được, chỉ dừng lại ở sau cửa, đứng yên ở đó. Cản thi ban ngày thì vào khách sạn tử thi nghỉ lại, ban đêm lại đi tiếp, có khi gặp trời mưa to gió lớn phải dừng lại mấy ngày.

Phạm vi hoạt động của nghề cản thi thực ra rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi khu vực Tương Tây. Tương Tây nằm ở phía tây Hồ Nam, bao gồm bốn khu vực chính là Nguyên Lăng, Lô Khê, Thần Khê và Tự Phổ. Thứ nhất là vì chỉ có Tương Tây là có khách sạn tử thi, thứ hai là vì dân Tương Tây nghe hiểu tiếng chuông, nghe thấy tiếng chuông tự biết tìm cách tránh đường, thứ ba là vì Tương Tây có những con đường bên ngoài khu dân cư, còn các tỉnh thành khác đường đi chủ yếu vẫn là xuyên qua thôn xóm, dễ làm người sống kinh sợ, nên nghề cản thi chỉ thịnh hành ở khu vực này.

Điều kiện hành nghề: Ở Tương Tây từ xưa đã coi cản thi như một nghề quang minh chính đại, muốn học nghề này phải bái sư. Lúc bái sư phải đáp ứng được hai yêu cầu: thứ nhất là can đảm, thứ hai là khỏe mạnh. Muốn học nghề, đầu tiên phải bị thật xấu xí, càng xấu càng tốt. Hơn nữa còn có thử thách. Thử thách thứ nhất là sư phụ sẽ đem người muốn học xoay mạnh vài vòng, xoay xong yêu cầu người muốn học phải lập tức nhìn lên mặt trời mà đoán xem đâu là đông tây nam bắc; nếu không đoán được thì khi đi cản thi ban đêm sẽ không phân nổi phương hướng, không có tư cách cản thi. Thứ hai là phải có khả năng khiêng vác được vật nặng, vì khi gặp những sườn núi quá dốc, thi thể không thể tự mình leo lên được, thì người cản thi phải tự cõng thi thể từng bước từng bước một leo lên. Thử thách cuối cùng là sư phụ sẽ đem một mảnh lá bằng đồng giấu trong một nhà mồ hoang vắng, yêu cầu người học việc tới lấy nó về. Nếu không làm được thì không đủ can đảm để làm nghề cản thi. Nếu vượt qua tất cả những yêu cầu trên thì có thể chính thức bái sư học nghề.

Bình thường, dân cản thi cũng giống hệt người thường, làm nghề nông. Chỉ có những lúc có ai cần cản thi, mới tìm đến họ, hỏi: “Sư phụ, xin mời hành một lần cước” hoặc “Sư phụ, xin mời đi hành cước”. Lúc đó họ mới đem ra một tờ giấy màu vàng đặc chế, cho người thân của người chết ghi tên tuổi và ngày sinh – ngày mất của người chết lên đó, lại đem ra một lá bùa khác dán lên tờ giấy đó và cất kỹ trong người.

Khi hành nghề, cản thi lúc nào cũng phải ăn mặc giống nhau: đi giầy rơm, mặc trường sam bằng vải bố màu xanh, thắt đai lưng màu sậm, đầu đội mũ vải cao, trong túi cất một đống bùa.

Sư phụ dạy đồ đệ, đầu tiên là dạy vẽ bùa. Loại bùa đặc thù này được viết bằng mực đỏ trên nền giấy vàng, lúc gặp chuyện cần kíp có thể dán lên cửa hoặc một thân cây nào đó nằm ở phía tây, hoặc cũng có lúc đốt lên hòa vào nước rồi uống. Kế tiếp là dạy ba mươi sáu loại công phu, thứ nhất là “trạm lập công”, giúp thi thể đứng thẳng lên, thứ hai là “hành tẩu công”, giúp thi thể di chuyển được; thứ ba là “chuyển loan công”, giúp thi thể đi trên đường có thể xoay chuyển; ngoài ra còn có “hạ pha công” (để xuống núi); “quá kiều công” (để qua cầu); “ách cẩu công” vân vân. Ách cẩu công dùng để cho chó ven đường nhìn thấy thi thể khỏi sủa, vì tiếng chó sủa có thể khiến thi thể bị hoảng hốt, dễ sinh ra biến; chưa kể chó nhìn thấy thi thể sẽ lập tức chạy tới cắn xé. Cuối cùng là “hoàn hồn công”, một loại công phu đặc biệt có thể giúp thi thể di chuyển dễ dàng linh hoạt như người còn sống, với điều kiện hồn phách của thi thể phải còn. Loại công phu này trên thực tế là xoa lên người chết một loại thảo dược đặc thù chỉ có ở Tương Tây.

Phương pháp: Khi có người vừa qua đời, bạn bè của người chết sẽ tìm tới cản thi để thương lượng giúp đưa thi thể về quê nhà. Khi pháp sư tới, việc đầu tiên là hỏi thăm ngày sinh và ngày tử của người chết xem có xung khắc gì hay không. Tiếp theo, pháp sư sẽ niệm chú rồi dùng hết sức đâm cây kiếm gỗ đào của mình vào tấm ván giường của người chết. Nếu kiếm gỗ xuyên qua được, tức là người chết đồng ý cho pháp sư điều khiển, pháp sư lúc đó mới tiếp nhận vụ cản thi. Nhưng nếu kiếm không xuyên qua được hoặc bị gẫy thì pháp sư sẽ lập tức quay lưng bỏ đi không tiếp, vì thi thể không chấp nhận cho hắn điều khiển, nếu cứ cố tình ra tay thì có khả năng xảy ra sự biến. Tiếp nhận rồi, cản thi cũng không lập tức lên đường mà chờ thêm vài ngày, cho đến khi có khoảng bốn năm thi thể mới tập trung lại đi một lần. Nhưng thi thể mà pháp sư đã làm phép kỳ lạ là không hề hư thối, mặc kệ khí trời thế nào. Lúc lên đường, pháp sư dán lên các thi thể một đạo bùa, thì thầm niệm chú, thi thể lập tức bật dậy đi theo phía sau pháp sư.

Vén màn bí mật:

a. “Gọi người chết”: Người viết bài này (tức là người viết nó trên Baidu – Lục Mịnh) đã có lần nhặt được một tờ giấy trên đường, trên đó ghi “Xin cho Gọi người chết đi qua”, sau này lại tận mắt được chứng kiến một chuyện kỳ lạ có liên quan tới nghề này. Gọi người chết, cũng tức là cản thi, nhưng phải dùng giọng nói, hét to ra lệnh cho người chết phải đi thế nào. Kỳ thực lúc nhặt được tờ giấy tôi không hề tin, nhưng vào cuối năm 1949, lúc đó tôi là nhân viên quản lý vận tải đường sông ở Tứ Xuyên. Một ngày kia sau giờ ngọ, tôi đi trên đường cái ngoài vùng núi Bành Sơn, có một người đi ngang qua tôi, tôi lập tức chú ý tới, vì người đó bước chân rất quái dị, cứng còng không tự nhiên. Tôi dừng lại nhìn kỹ, bên tai có một người qua đường nhỏ giọng nói: “Là Gọi người chết đấy!” Anh ta nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi nên cố tình đánh động. Tôi nghe thế, càng cố gắng quan sát kỹ hơn: “người chết” mặc trường bào đen, không có ống tay áo, nhìn có hơi cao to hơn bình thường, toàn thân cứng còng nhưng đi một cách rất có tiết tấu tiến về phía trước. Phía trước người chết có một người mặc áo cánh ngắn, bên tay trái xách một cái giỏ cũ, tay phải cầm một cây đèn cũ. Người mặc áo cánh ngắn cũng đi rất kỳ lạ: luôn luôn hơi nghiêng người xoay nửa mặt về phía người chết, ánh mắt nhìn theo người chết chằm chằm, chỉ thỉnh thoảng mới quay về phía trước nhìn đường. Đi một chút anh ta lại thả một tờ giấy lên mặt đường, tôi nghĩ ngay đó là “tiền mãi lộ” dùng để mua đường đi của dân cản thi. Bị lòng hiếu kỳ thôi thúc, tôi đi theo hai bọn họ một đoạn khá xa, những lúc phải leo dốc hay xuống dốc, leo lên cầu hay xuống cầu, người mặc áo đuôi ngắn liền hô to cho người mặc áo đen biết, người áo đen cũng cứ nghe theo hiệu lệnh mà tiến. Lúc đó, tôi nghĩ: Gọi người chết thực ra là “dẫn người chết” thì đúng hơn. Hôm đó đáng tiếc có việc không thể theo tới cùng, sau đó có người kể lại cho tôi biết đoạn kết: Hóa ra chiều tối hôm đó bọn họ đến một quán trọ, người trong quán trọ vừa thấy thì đã biết bọn họ làm nghề gì rồi, vì bọn họ tìm chỗ ngủ rất sớm, khách thường còn chưa tới thì họ đã tìm chỗ trụ lại rồi. Chưởng quỹ liền reo lên: “Hỉ thần tới!” Ông chủ quán nhìn thấy người mặc áo đen phía sau thì vừa mừng vừa sợ: sợ là sợ người chết, mừng là vì “Hỉ thần” là điềm phát tài, bèn dọn cho bọn họ một phòng thật kín đáo, lúc đưa cơm phải đưa thêm một cái bô nước tiểu, vì “Gọi người chết” phải canh thi thể không thể ra ngoài. Đưa cơm phải đưa hai phần, một phần là để cúng Hỉ thần. Nhưng lúc đó Tứ Xuyên vừa giải phóng, có mấy người bộ đội đồn trú ở đó đi kiểm tra nhân khẩu, ông chủ quán cứ thế nói thực, mấy người bộ đội liền tới gõ cửa phòng, yêu cầu mở cửa. Lúc mở ra quả nhiên thấy một người cao to mặc áo bào đen đứng yên trong phòng, trên bàn có hai phần cơm đã hết, chén đũa vừa mới rửa còn ướt. Người mặc áo cánh ngắn khai rõ tên tuổi của người chết, bảo là bọn họ đi từ phương bắc tới.

Nhưng sáng hôm sau, mấy người bộ đội cảm thấy kỳ quặc nên lén quay lại theo dõi, thấy hai người kia rời quán trọ từ rất sớm, hai người bộ đội thấy người mặc áo cánh ngắn lúc này lại là một thanh niên trẻ, trong khi đêm hôm qua là một người hơn năm mươi, liền lập tức yêu cầu bọn họ về đồn điều tra. Lúc đó mới biết được sự thật: Hóa ra bọn họ có hai người, thi thể cũng là có thật, một người đóng vai “Gọi người chết” đi trước dùng giọng nói dẫn đường, người còn lại cõng thi thể trên lưng, giấu toàn bộ cơ thể trong chiếc áo bào đen vừa rộng vừa dài, không nhìn thấy đường, chỉ dựa vào cái lỗ tai mà tiến về phía trước, đồng thời còn phải ra sức giữ cho lưng thật thẳng, quả thực là một nghề vất vả! Bọn họ phải đi suốt ngày đêm, chỉ dừng lại ăn cơm có một lần, vì việc cõng người chết quá cực nhọc nên bọn họ phải thay phiên nhau, do đó mới có chuyện anh bộ đội kia nhìn thấy hai khuôn mặt khác nhau. Người bình thường không thể biết, vì bọn họ đi quá sớm, vả lại làm gì có ai đi theo họ từ ngày này sang ngày khác để kiểm chứng xem có bao nhiêu người? Nghe xong, mấy anh bộ đội cũng khâm phục sức khỏe và khả năng to lớn của bọn họ, vả lại nghĩ bọn họ cũng chỉ khổ cực dùng sức lao động kiếm ăn, liền chỉ khuyên bọn họ không nên dùng ma quỷ lừa gạt người khác mà nên đường hoàng làm việc.

b. Khiêng người chết:

Âm mưu này cũng cần hai người, một đóng vai cản thi, một giả dạng người chết. Một người đi trước rải “tiền mãi lộ”, người đi sau mặc trường bào, mặt mày che khuất, trông có vẻ cực kỳ quái dị, khiến người bên đường sợ mà không dám đi theo nhìn. Thực ra, mãi lộ tiễn là một loại biển báo giúp người phía sau có thể bước lên mấy tờ tiền giấy mà an toàn tiến tới trước.

Trước khi tới nơi hai ba ngày, bọn họ báo cho gia quyến người chết, chuẩn bị tốt quan tài khâm liệm. Sau khi tới nơi là lập tức nhập liệm, quá trình này hoàn toàn do một mình cản thi chịu trách nhiệm, không cho bất kỳ ai tới gần hay nhìn trộm, nói là vì nếu có người khác bên cạnh thì có khả năng sẽ bị biến thành cương thi, mà quá trình “đỡ người chết ra khỏi quan tài” cũng phải tiến hành lúc nửa đêm. Khâm liệm xong xuôi mới cho người thân vào, người thân nhìn thấy đúng là mặt mũi của người chết liền khóc than thảm thiết, không ai có thể ngờ đó chỉ là một âm mưu.

Thực ra, sự thực nằm ở dưới lớp áo liệm. Dưới đó chỉ còn có cái đầu và tứ chi của người chết mà thôi, bị cột chặt vào mấy đầu mẩu gỗ, nhìn từ bên ngoài thì không thể phân biệt được. Còn phần còn lại của thi thể, không biết đã sớm bị bọn họ quăng đi đâu mất rồi!

[1] Món thịt vịt đặc biệt của vùng Tương Tây, cách làm là khi giết vịt thì hứng huyết vào bột nếp, sau đó dùng bột nếp pha máu vịt đó đồ thành bánh, xào với dầu cải rồi hấp chung với thịt vịt.