Chương 20: Tương Tây thi cổ (Thượng)

Người chết rồi coi như là chấm dứt, nhưng không ai cam lòng cứ thế biến mất không để lại chút tăm tích nào trên đời này, vì thế người sống bắt đầu vì người chết lo toan mọi hậu sự, đi đưa đám thành hàng dài dằng dặc, rải tiền âm phủ đầy đường phủ kín cả quan tài. Có nhiều người khi sống rất vất vả, nhưng chết rồi còn được xe Cadillac mui kín có rèm che đưa tới nơi an nghỉ cuối cùng, bất quá, mục đích chỉ là đi hỏa táng mà thôi.

Nửa đêm hôm ấy, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ một số lạ, lòng tôi băn khoăn không biết là ai, nửa đêm nửa hôm không ngủ còn gọi điện thoại cho người ta thế này. Tiếp điện thoại lên, bên kia lập tức truyền tới một chuỗi tạp âm xè xè chói tai, tiếng người nghèn nghẹt bên đầu kia điện thoại cũng trở nên kỳ lạ hơn. Tôi a lô a lô mấy lần như lính liên lạc chờ điện báo, mãi một lúc sau tín hiệu mới khá hơn một chút, cuối cùng cũng nghe được bên kia nói gì. Người bên đầu dây kia là một người đàn ông, giọng nói khàn khàn nghèn nghẹt như bị cái gì chặn ngang cổ, ngôn ngữ toàn là phương ngữ vùng Lô Khê[1]. Tôi trước đây có một người bạn học người miền này, nên mới nghe đại khái hiểu là người kia muốn tìm Bạch Dực. Tôi gác ống nghe lên vai, quay lại gọi Bạch Dực đang ngủ dậy: “Lão Bạch dậy mau, có người tìm này.”

Bạch Dực đi ngủ rất sớm, lúc này bị tôi hét gọi dậy bèn giật mình một cái, sau đó lồm cồm ngồi dậy tìm kính mắt đeo lên. Lúc nhận điện thoại còn đưa tay vỗ ót tôi một cái: “Nửa đêm nửa hôm đừng có gọi tên người ta to như vậy, quỷ nghe thấy bây giờ! Đầu tôi bị cậu gọi mà nhức bưng bưng rồi đây này!” Nói xong lập tức đổi giọng ôn tồn nói với bên kia: “A lô, xin hỏi ai đấy?”

Tôi lè lưỡi làm mặt quỷ, sau đó cũng nán lại bên cạnh nghe, tiếng tạp âm trong điện thoại vẫn rất to, nghe như tiếng TV khi mất sóng vậy. Chỉ thấy Bạch Dực nghe một lúc, sau đó nghiêm túc gật đầu đáp: “Biết rồi, sẽ tới nhanh.”

Bạch Dực cúp điện thoại, vuốt vuốt tóc, khoác thêm một cái áo khoác rồi ngồi lên giường trầm tư. Đúng lúc này, đồng hồ trên tường chỉ 12 giờ đêm, ngoài đường vang lên tiếng pháo lẻ tẻ của những người ham vui thức khuya. Anh ta nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ treo tường hồi lâu, sau đó quay lại hỏi tôi: “Cậu có ý kiến gì với người chết không?”

Tôi gãi đầu nhìn anh ta ngạc nhiên, thầm nghĩ: ‘Mới đầu năm đầu tháng đừng ăn nói xui xẻo chứ’, nhưng vẫn trả lời: “Không có ý kiến gì đặc biệt, người chết chẳng qua là người từng sống thôi chứ gì. Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, cho nên người ta mới sinh ra cấm kị với người đã chết.”

Anh ta nghiêm trang gật đầu: “Tốt, tư tưởng không tệ, có muốn theo tôi đến Tương Tây một chuyến không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Đến đó làm gì? Xem cản thi à?”

Anh ta lắc đầu trả lời: “Không phải, là lễ giỗ 10 năm của ông cố ngoại tôi, người nhà đều phải về, cho nên nếu cậu không có gì kiêng kị thì theo tôi về đó một chuyến.”

Tôi nghiêng đầu suy nghĩ hồi lâu, đúng là khoảng thời gian này rất nhàm chán, kỳ nghỉ năm mới cũng sắp hết. Vì không về nhà ăn mừng năm mới nên ba mẹ có gửi tiền tới, nhưng vẫn chưa dùng vào việc gì. Huống chi nghe nói ở Tương Tây phong cảnh rất đẹp, nhất là vùng Miêu Cương, mang theo văn hóa thần bí kỳ lạ. Nghĩ vậy tôi gật đầu vỗ vai lão Bạch nói: “Được, tôi và anh cùng về, thuận tiện đi du lịch một chuyến, nói xem, người nhà anh có bao ăn bao ở không?”

Bạch Dực vuốt vuốt cằm như đang tự hỏi: “Đó không phải là vấn đề quan trọng, quan trọng là tôi nên giới thiệu cậu thế nào đây, dù sao thì…”

Tôi nghĩ cũng phải, lễ lạc trong nhà người ta chắc chắn không hoan nghênh người lạ, nhưng lúc này Tương Tây rất coi trọng ngành du lịch, chắc là có nhiều quán trọ và địa điểm tham quan chứ nhỉ? Đôi mắt của anh ta nhìn trân trân lên trần nhà sau đó nhẹ nhàng lia xuống mặt tôi: “Lấy danh nghĩa là nương tử của tôi cũng được chứ nhỉ?”

Lại nữa… sau một giây trầm mặc, tôi bắt đầu bạo phát, gầm lên một tiếng, nắm tay lập tức huơ tới. Rõ ràng là anh ta cố tình chọc cho tôi điên lên mà! Câu chuyện của chúng tôi rốt cuộc kết thúc trong hỗn loạn, tôi xốc lại quần áo ngủ xộc xệch, lắc lắc đầu, bàn tay nắm chặt đã run lên, đánh nhau không phải là thế mạnh của tôi, tôi biết rõ, cho nên đành mắng một câu rồi quay về giường đi ngủ. Trong lòng nghĩ: ‘Cùng lắm thì không thèm đi nữa, thế nào chẳng có cơ hội khác… Mà cổ thành Phượng Hoàng mỹ lệ của ta ơi, thiếu nữ Miêu Cương mỹ lệ nữa…”

Không ngờ hôm sau Bạch Dực vẫn mua vé xe lửa cho tôi, tôi có phần cảm kích nhìn anh ta, có thể thấy rõ Bạch Dực hoàn toàn không phải kẻ hay chấp nhất, sẽ không vì một trận đánh nhau mà phá hủy toàn bộ tình cảm huynh đệ gắn bó bấy lâu. Tôi hớn hở chộp lấy vé, Bạch Dực vừa uống trà vừa nói: “Có lẽ lễ giỗ lần này hơi vội, hình như vốn định bảo tôi về từ dịp năm mới, nhưng vé xe lửa lúc đó rất khó mua cho nên chờ bây giờ mới gọi điện thoại. Chiều nay chúng ta xuất phát. Cậu đi chuẩn bị ít hành lý đi, sau đó còn phải đi gấp.”

Tôi gật đầu, trong mắt có chút kích động, lập tức soạn túi du lịch ra nhét mấy thứ quan trọng cần cho chuyến hành trình vào đó. Những người xuất thân từ trường Mỹ thuật luôn luôn rất quen thuộc với việc du lịch, vì khi học thế nào chẳng phải đi đây đi đó vẽ phong cảnh, cho nên tôi biết rất rõ cần phải mang theo những gì. Lúc này cũng vậy, tôi nhanh nhẹn soạn mấy thứ đồ dùng rửa mặt.

Bạch Dực cũng không rảnh rỗi, anh ta đang thu thập những thứ của mình, trong số đó có một cái bao mà trước giờ tôi chưa từng thấy, dường như dùng một lớp giấy dầu rất cũ bao xung quanh, buộc chặt lại. Sau đó lại nhét hết vào túi ni lông cho khỏi thấm nước, cuối cùng mới nhét vào túi du lịch.

Bạch Dực thấy tôi đang hiếu kỳ nhìn sang, liền cười khổ: “Không có gì đâu, phòng ngừa lỡ như cần tới thôi. Nhanh tay lên, xe lửa sắp tới rồi.”

Chúng tôi xách theo hành lý, mua thêm hai hộp cơm hộp rồi đi ra nhà ga. Nói thật lòng, đi du lịch bằng xe lửa là một kinh nghiệm vất vả, nhưng cũng cực kỳ thú vị. Cái cảm giác “rong ruổi trên đường dài” này là một cảm giác cực kỳ phóng khoáng, dễ làm người ta thả lỏng tinh thần. Cho nên tôi mới thích đi du lịch, có thể thỏa mãn được trí tò mò luôn tràn ngập của mình.

Người trên xe lửa không nhiều, bởi vì những ai muốn hồi hương đều đã về từ trước rồi. Mà những người không về nhà thì lúc này cũng đang lo chuẩn bị bắt đầu một mùa công tác mới. Chúng tôi ngồi giữa một toa xe vắng vẻ, mặc dù có hệ thống sưởi, nhưng dường như có ai đó mở cửa sổ nên vẫn cảm thấy từng đợt gió lạnh ùa vào. Ngay chỗ tiếp giáp giữa hai toa tàu có một nhân viên nhà ga đang đứng, thản nhiên nhìn ra cảnh sắc bên ngoài, vẻ mặt cực kỳ lãnh đạm. Có lẽ ông ta đã nhìn thấy những cảnh vật này không biết bao nhiêu lần rồi, tôi nghĩ vậy, cũng nghển cổ nhìn ra ngoài cửa sổ.

Cảnh sắc trước mặt chuyển dần từ những tòa nhà cao tầng, mái nhà chen chúc nhau thành những cánh đồng lúa bát ngát. Lúc này đang là mùa đông nên có nhiều nơi vẫn còn tuyết đọng, những tấm màn plastic bao bên ngoài những cái chòi canh lúa sột soạt lay động theo gió, trông xa giống hệt như những làn khói trắng mờ. Tôi ngồi ngược hướng với hướng tàu chạy, nên nhìn một lúc thì đầu bắt đầu choáng váng, từng cột từng cột điện lướt qua trước mắt khiến đôi mắt đặc biệt mỏi.

Bạch Dực dùng bình thủy giữ ấm hãm một bình trà, chỉ uống một ngụm sau đó đưa sang cho tôi. Chúng tôi ăn cơm hộp vào bữa trưa. Thực ra trong ba lô còn nhiều đồ ăn vặt, nhưng không muốn ăn hết quá mau nên tôi không lấy ra.

Chúng tôi chọn xe lửa tốc hành, nhưng vẫn phải ngồi suốt mười mấy tiếng đồng hồ. Nói cách khác là đến nửa đêm hôm đó xe mới tới nơi, lúc này ngoài cửa sổ đã là một mảnh tối đen như mực. Chỉ có vài ngọn đèn dầu xa xa của những gia đình nông dân cho chúng tôi biết mình đang ở thế giới loài người chứ không phải đang ngụp lặn trong một đường hầm không gian xa xôi nào đó.

Tôi lấy tay chống cằm, ánh mắt xa xăm nhìn vào khoảng không đen thẳm trước mặt. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng hơi chớp, còn những cơ khác trên mặt đều cứng lại. Bạch Dực lại đẩy cho tôi một ly trà, sương trắng ùa vào bám lên cửa kính thành những vệt màu xám loang lổ, nhìn ra thế giới bên ngoài thông qua lớp kính phủ đầy sương cứ như đang nhìn vào một thế giới tưởng tượng.

Tương Tây kỳ thực là một khu vực rất lớn, vốn có danh xưng là một trong bốn “yết hầu Tương, Ngạc, Du, Kiềm”. Hồ Nam, Thành Đô, Quý Châu đều có một phần thuộc về địa phận Tương Tây, nhưng ở đây chỉ có một số ít dân tộc thiểu số sinh sống, chủ yếu là người Thổ Gia và người Miêu. Cho nên chỗ này còn được gọi là địa vực Miêu Cương, khí hậu ẩm ướt khiến nó sinh nhiều rắn rết trùng độc. Bà nội tôi từng kể rằng sau giải phóng vẫn còn có nhiều người hành nghề cổ độc vu bà và cản thi. Hai thứ nghề nghiệp này có thể nói là những nghề quỷ dị và thần bí nhất. Nhưng hình như đều có quy định do tổ nghề truyền lại, ví dụ như cổ độc bà chỉ chọn những cô gái làm đồ đệ, hơn nữa còn thử thách cô gái bằng cách hạ cổ lên người cô ta, yêu cầu cực kỳ hà khắc. Còn cản thi cũng có những yêu cầu riêng của nghề mình, ví dụ như người hành nghề ít nhất phải đủ 16 tuổi, thân cao trên 1.7m, tướng mạo phải xấu một chút, tốt nhất là càng xấu càng hay, đồng thời cũng không được cưới vợ.

Nơi này còn là một con đường thông thương buôn bán cực kỳ quan trọng, hai đường chuyên vận chuyển trà ngày xưa là Điền và Xuyên đều đi qua vùng này, cho nên đối với các thương nhân cổ đại thì khu vực này là một đầu mối giao thông buôn bán then chốt. Nhưng nơi này lại bị cái đường sá gồ ghề hiểm trở, thập phần khó đi, có thể nói là bán xa không bằng ngồi gần, nhưng lợi nhuận khổng lồ vẫn khiến rất nhiều thương nhân chọn con đường hung hiểm này, cũng có khi vì nó mà đánh mất tính mạng. Cho nên đương nhiên là phải sinh ra một nghề giúp những người không may bỏ mạng nơi đất khách quê người được mang về quê hương cố thổ chôn cất.

Bạch Dực nhìn đồng hồ đeo tay một chút, sau đó nói với tôi: “Sắp tới nơi rồi.” Nói xong rút từ trong ba lô ra một cái túi gấm nhỏ xíu kín đáo đưa cho tôi: “Chỗ này lắm tai nhiều họa, đeo cái này theo bên người để phòng ngừa vạn nhất, trong này có bột hùng hoàng và chu sa trộn lẫn, có thể phòng tránh được rắn rết.”

Tôi cầm lấy cái túi nhỏ, cảm giác không khác mấy với mấy cái túi hương bán trong dịp tết Đoan ngọ, đưa lên mũi ngửi ngửi còn nghe thấy một mùi dược hương nhè nhẹ. Tôi liền giấu kỹ vào áo trong. Một ông già ngồi ghế bên cạnh chợt nghển cổ nhìn sang, ông ta mặc trang phục Thổ Gia truyền thống, trên người có một mùi rất kỳ lạ. Hít hít mấy cái, ông ta liền cười nói: “Ôi cha, không dè tên nhóc này cũng biết tới loại bột tránh cổ này, xem ra có khiếu với cổ thuật lắm đây.”

Bạch Dực nhẹ nhàng cười đáp lại: “Vậy xem ra bác cũng là dân trong nghề rồi?”

Ông lão nhìn cũng không cao tuổi lắm, nhưng thanh âm cực kỳ khô khốc cứ như một cái máy hát bị hỏng, nếp nhăn kéo dài bên khóe mắt lên tới tận bên thùy tai, sắc mặt đỏ như gan lợn. Ông ta nói vẻ khen ngợi: “Tên nhóc này mắt tốt, ít ai nhìn mà biết lão đây có nghề, vậy để lão i mấy thứ có ích lắm đây.”

Vừa nói ông ta vừa lôi trong cái túi vải buồm để cạnh người ra hai tờ giấy màu vàng ệch, Bạch Dực vừa trông thấy thì trong mắt đã đầy kính trọng: “Hóa ra là một vị khởi cước sư phụ, thất kính thất kính.”

Ông ta cười ha hả, Bạch Dực và tôi đều lễ phép dùng hai tay nhận tờ giấy, trên đó dùng thuốc màu màu đỏ vẽ những kí hiệu hết sức ngoằn ngoèo kỳ quái, không giống chữ, cũng không giống tranh. Bạch Dực nhét tờ giấy vào túi tiền, sau đó hỏi thăm: “Sư phụ đây là đang đi đón Hỉ thần sao ạ?”

Ánh mắt ông lão chợt dịu lại, thoáng cái biến thành một ông lão cực kỳ bình thường, ông ta lắc lắc đầu: “Không, lão đi thăm thằng con, nó đang học đại học trên thành phố ấy, ta ra đó thăm nó.”

Bạch Dực gật đầu: “Xem ra sư phụ đã rửa tay chậu vàng. Cũng tốt, an hưởng tuổi già.”

Nói chuyện hồi lâu, cuối cùng xe lửa cũng tới trạm cuối. Có lẽ là do ngồi lâu quá nên lúc đứng lên, tôi lập tức bị tê chân đau đến cau mặt. Tôi nhăn nhó túm chặt lấy Bạch Dực, anh ta nhìn tôi, cười khổ nói: “Đúng là không có tiền đồ, chỉ ngồi xe thôi mà cũng có thể thảm tới mức này cho được!”

Tôi lắc lắc chân rầu rĩ: “Lão Bạch đừng chọc tôi nữa!”

Sau khi chờ một chút cho cảm giác của hai chân trở lại bình thường rồi, tôi mới buông anh ta ra cầm hành lý từng bước từng bước đi ra cửa. Ông nhân viên nhà ga nọ nhìn thấy dáng đi lung lay buồn cười của tôi, trên khóe miệng cứng ngắc rốt cuộc nở một nụ cười nhẹ.

Đi tới sân ga mới phát hiện khí trời xung quanh vô cùng ẩm ướt, sương mù dày đặc mang theo một thứ mùi cổ quái, không giống mùi mốc, nhưng cũng không dễ ngửi, tất cả cộng với gió rét táp vào mặt thành một loại khí hậu không thân thiện chút nào với du khách. Xa xa là phòng kiểm vé, trước phòng treo một ngọn đèn nhỏ tỏa ra thứ ánh sáng màu cam nhạt leo lét mờ ảo, ngoài ra không thể nhìn thấy xa hơn được nữa, trên sân ga không còn ai, chỉ còn hai chúng tôi run rẩy đứng trong gió, cộng với hai bóng người mờ nhạt đứng dưới bóng đèn tù mù của quầy kiểm vé. Tôi hỏi Bạch Dực: “Có đúng là người nhà anh sẽ tới đón chúng ta không?”

Bạch Dực lắc lắc đầu, anh ta cũng không chắc lắm, chúng tôi đành xốc lại hành lý trên vai mang vé ra phòng kiểm vé, tới nơi mới phát hiện hai bóng người lúc nãy nhìn thấy là hai tấm biển quảng cáo, trong phòng chỉ có một nhân viên kiểm vé đang gà gật. Hai tấm biển bị gió thổi xiêu qua lắc lại, nhìn từ xa trông có vẻ giống người thật đang cử động.

Nhân viên lười biếng nhận hai tấm vé, xé một góc rồi trả lại cho chúng tôi, sau đó không thèm liếc chúng tôi nửa con mắt đã ngoẹo đầu kéo cao cổ áo khoác lên tiếp tục giấc ngủ, tôi nghĩ xem ra lúc nãy chúng tôi đã làm phiền mộng đẹp của anh ta không chừng.

Chúng tôi lếch thếch rời khỏi trạm xe lửa, đứng chờ trước cửa nhà ga hồi lâu, nhưng vẫn không có ai ra đón. Bạch Dực gọi điện thoại thử, nhưng không có ai tiếp máy. Tôi lo lắng nhìn quanh, không biết phải làm sao, đây là lần đầu tiên tôi tới đây, với tôi mà nói tất cả mọi thứ quanh đây đều rất xa lạ.

Bạch Dực nhìn sắc trời, lo lắng nói: “Không nên ở lại đây, bằng không chúng ta tự đi tới đó vậy, nó là một khu trại nhỏ ấy mà…”

Tôi hoài nghi nhìn anh ta: “Anh có biết đường không đấy? Lúc này là nửa đêm đó nghe…”

Anh ta nheo mắt nhìn ra xa: “Coi như là biết đường, đi thôi, có lẽ không nhớ nhầm đâu.”

May mà nhiệt độ ở đây không thấp lắm, hơn nữa đi một lúc thì liền đổ mồ hôi, buổi tối ở đây không có mấy xe cộ qua lại, chúng tôi vất vả lắm mới chặn được một cái xe tải nhỏ, nhìn thì biết là vừa đi chở hàng về. Bạch Dực móc ra 50 tệ, nói cho tài xế địa chỉ để anh ta chở chúng tôi tới nơi. Tài xế nhanh nhảu nhận lời, dùng khẩu ngữ Tương Tây luôn miệng nói ở đây không có nơi nào anh ta không biết.

Lúc tài xế đưa tay nhận tiền, tôi để ý anh ta có hai bàn tay đen thui, như là ngâm quá lâu vào cái gì vậy. Mặt anh ta gầy khẳng, nhưng hai bên má da thịt lại đùn lên, mỗi lần anh ta cười thì toàn bộ cơ mặt cứ như nhăn lại với nhau thành một miếng da nhàu nhĩ, giống như một cái mặt nạ sắp hư. Anh ta cho hai chúng tôi vào thùng xe ngồi, vừa bước vào thì một mùi cay nồng đã xông thẳng ra, khiến tôi chảy nước mắt ròng ròng. Tôi nhìn bốn phía, nào là tiêu, cùng mấy bịch ớt khô. Hóa ra đây là xe chở gia vị, người dân ở đây nổi tiếng ăn cay, cho nên chắc anh tài xế này đã sớm quen với cái mùi cay nồng này rồi. Tôi phải liên tục chùi nước mắt, nhưng thoáng cái trước mắt đã mờ đi.

Tài xế thấy chúng tôi vất vả như vậy cũng hì hì cười: “Tới từ nơi khác đây, đã tới đây là nhứt định phải ăn thử bánh gạo ớt cay của chỗ này đó nghen!”

Xem ra anh ta đã gặp qua không ít khách du lịch, cả cách giới thiệu lẫn nội dung giới thiệu đều không khác gì dân hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp. Tôi chỉ gật gật đầu chứ không dám há miệng, sợ mùi cay xè kia xộc thẳng vào cổ họng.

Bạch Dực ngồi cạnh tôi cũng có phần khổ sở, nhưng anh ta ăn cay khá hơn tôi, nên không đến nỗi nước mắt nước mũi tèm lem khó coi như tôi lúc này. Chỉ là không nói gì, nhìn chằm chằm vào mấy bộ da rắn trong xe, nói thật lòng là cái xe chở hàng này bẩn gần chết, mặt kính thủy tinh đều ám bụi tối mù, đệm ngồi đen thui như thể nhiều năm chưa có người giặt giũ. Tôi định mở cửa sổ xe cho thoáng một chút, đẩy bớt mùi cay ra khỏi khoang, nhưng tài xế đã nhanh chóng ngăn tôi lại: “Chú em chớ mở cửa sổ, không là vận xui chui vào liền, con đường chúng ta đang đi hồi đó gọi là ‘âm lộ’ lận đó!”

Tôi khó chịu rụt tay về sụt sịt mũi mà hỏi: “Âm lộ là cái gì?”

Tài xế ngoặt tay lái, chậm rãi nói: “Con đường này hồi xưa là chỉ dành cho cản thi đi mà thôi, cho nên tối đến là người sống không bước qua đây nữa đâu, nhưng tụi tui là dân buôn bán, cho nên thế nào cũng phải đi qua, chỉ là lúc đi qua tuyệt đối không được mở cửa sổ ra cho khỏi đụng vô mấy thứ của…người chết mà thôi.”

Tôi lau lau mặt hiếu kỳ hỏi: “Bây giờ mà còn những người làm nghề cản thi sao?”

Tài xế cười u ám đáp: “Sao không, dưng mà không cho ai thấy thôi. Mấy cái nghề này nghe nói có thể gọi quỷ tới đó.”

Bạch Dực dường như giật mình nhận ra cái gì đó, thoáng biến sắc mặt. Anh ta quay phắt lại nhìn bóng lưng tài xế, khi tôi định lên tiếng hỏi tiếp thì Bạch Dực đã ngầm đá vào chân tôi một cái, tôi quay lại nhìn, anh ta liền lén viết vào lòng bàn tay tôi một chữ “quỷ”.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn kỹ tài xế, nhưng vẫn chưa thấy có gì quái dị. Vì vậy lại quay đầu nhìn Bạch Dực, thì thầm hỏi: “Sao vậy?”

Bạch Dực lắc nhẹ đầu ý bảo đừng lên tiếng, sau đó âm thầm nắm trong tay một túi ớt bột to, sau đó mở miệng nói với tài xế: “Ông anh, sau lưng ông anh có một con sâu kìa!”

Tài xế đột ngột thất kinh, phanh gấp lại, đưa tay quờ ra sau lưng tìm. Bạch Dực nhân lúc anh ta vừa quay lại, liền lập tức ném hết chỗ ớt bột cay xé trên tay mình vào mặt anh ta, tài xế bị rát, bật gào to lên, vội lấy cả hai tay ra sức dụi mắt.

Bạch Dực thừa cơ giật tung cửa xe, túm tay tôi nhảy thẳng ra ngoài. Tôi bị hành động của anh ta làm cho thất kinh, sững người một giây rồi hấp tấp ôm hành lý định nhảy, nhưng cơ thể đột nhiên bị kéo giật về phía sau, khi quay đầu lại liền phát hiện tên tài xế kia hai mắt đỏ ngầu đang túm chặt lấy một chân tôi, lực kéo mạnh như hai gọng kìm, tôi giãy thế nào cũng không được. Cả gương mặt và cơ thể của tên tài xế đều co rút lại, dáng vẻ hòa nhã bình thường lúc nãy đã biến đâu mất, chỉ còn lại sắc mặt hung tàn như ác quỷ. Hai mắt hắn đang bị đau nên lực kéo trên tay càng thêm mạnh, cổ chân tôi gần như bị hắn bóp nát. Hắn rít lên tàn bạo: “Nhãi con, chớ chạy, lâu lắm mới có một tên ngốc như mi khỏi cần chuốc thuốc mê, tiếc lắm!”

Bạch Dực đã nhảy hẳn ra khỏi xe, nhưng một tay vẫn cố sống cố chết nắm chặt tay tôi, cho nên tôi có cảm giác như bị hai người bọn họ xé xác vậy. Chợt trên mu bàn tay của tên tài xế đột nhiên nổi lên một khối nhỏ, sau đó, một…con sâu đen thui chậm rãi chui ra từ dưới da của hắn! Con sâu bò tới với tốc độ cực nhanh, thoáng chốc mà nó đã bò lên đùi tôi, tôi nhìn nó, tóc gáy lập tức dựng đứng.

Con sâu bò loang loáng tới trên đầu gối, chui vào dưới áo khoác. Một tay tôi bị Bạch Dực giữ cứng, tay còn lại còn phải túm chặt ba lô, nên không có cách nào cản nó lại. Chỉ thấy nó lổm ngổm bò tới bên ngực, lại dường như đụng nhằm cái gì đó làm nó hoảng sợ, đột ngột quay đầu bỏ chạy trở lại. Tên tài xế thấy thế trợn tròn mắt kinh ngạc, thừa lúc hắn đờ người ra thoáng thả lỏng tay, tôi lập tức đá cho hắn một cú thật lực, hắn bị đau buông tay, cả người tôi mất điểm tựa, thoáng cái đã ngã ngửa ra khỏi xe, cùng Bạch Dực lăn lông lốc xuống con đường hơi dốc phía dưới bánh xe, tôi chỉ biết ôm đầu mặc kệ cho trời đất quay cuồng xung quanh mình, cho đến lúc “Hự” một cái cả hai chúng tôi đụng mạnh vào cái gì đó mới dừng lại. May mà y phục mùa đông dày cộm, nếu không thì với cũ ngã lúc nãy chắc chắn đã bị trọng thương rồi.

Tôi chật vật chống nửa người lên nhìn xung quanh, tất cả mọi thứ xảy ra quá đột ngột, đầu óc tôi lúc này trống rỗng, chỉ còn hình dạng kinh khủng của con sâu đen thùi lúc nãy là còn in đậm trong trí nhớ. Đang khi xác định lại là không mất mát gì thì tôi chợt nhớ ra Bạch Dực, không biết anh ta lăn tới đâu rồi, lại chợt nghe một tiếng hừ nhẹ sau lưng.

Tôi quay lại, cả người Bạch Dực đập thẳng vào thân cây phía sau, sắc mặt tái nhợt, rõ ràng cú va chạm không nhẹ chút nào. Anh ta bưng một bên vai cắn răng hỏi: “Còn muốn ngồi trên người tôi đến bao giờ?!”

Tôi định thần nhìn lại, mới phát hiện cả người tôi đang đè lên người anh ta, là anh ta ôm tôi lăn xuống, nếu không phải được Bạch Dực dùng cả cơ thể mình che đỡ thì tôi có lẽ đã đập vào thân cây rồi, nếu xui xẻo có khi còn đổ máu không chừng. Tôi giật nảy người nhổm lên, có lẽ đụng vào vết thương của Bạch Dực, anh ta liền nhăn mặt rên lên. Tôi vội vã lăn ra: “Lão Bạch, lão Bạch, anh không sao chứ? Không bị xuất huyết trong chứ? Chết rồi chết rồi!”

Anh ta dùng tay đè chặt chỗ xương sườn: “Không sao, hình như không gãy xương. Cậu cũng không bị thương chứ?”

Tôi nghe mà trong lòng cảm động rưng rưng, đúng là người vĩ đại mà, quên mình vì người khác như vậy! Tôi cảm kích gật mạnh đầu: “Không sao, tôi không bị thương!”

Anh ta liền thản nhiên tiếp: “Vậy phiền cậu mang giùm cả ba lô của tôi luôn đi.” Anh ta chậm rãi đứng lên, tiện đường dựa hẳn sức nặng của mình lên người tôi luôn.

Tôi hai vai khoác hai túi hành lý lớn, sau lưng gánh thêm một cái ba lô, lại còn lại dồn sức đỡ Bạch Dực, nhất thời cảm thấy cả người nặng như đeo đá, mồ hôi mẹ mồ hôi con túa ra như tắm.

Tôi cắn răng hỏi: “Lão Bạch, tên tài xế lúc nãy là cái gì vậy? Sao từ trên tay hắn lại có sâu bò ra là thế nào?!”

Bạch Dực suy nghĩ một chút rồi nói: “Thứ này gọi là cổ nhân, bọn chúng là những gã đàn ông bị cổ bà khống chế, có vài loại cổ thuật cần dùng thịt người làm chất dẫn, cho nên các cổ bà thường thích bắt vài người về làm thuốc, những người đó không hẳn đã chết, nhưng bị cổ bà khống chế thì sống còn không bằng chết.”

Nhớ lại cảnh con sâu chui từ dưới da người lúc nãy ra, cả người tôi lập tức nổi da gà rùng rùng. Nhắc mới nhớ, nếu không phải nhờ túi hương Bạch Dực cho lúc ngồi trên xe lửa, tôi lúc này rất có khả năng cũng trở thành một cái túi chứa sâu rồi. Nghĩ tới đây, không khỏi đưa tay sờ sờ cái túi hương trong túi áo.

Tuy chúng tôi vừa tránh được một kiếp, nhưng cả hai vẫn còn lang thang trên con đường núi độc đạo, xung quanh chỉ có cây cối um tùm mà không có bóng người, sương mù dày đặc hơn cả khi còn chờ trong nhà ga, một thứ mùi ngai ngái quái lạ nào đó tản mác trong không khí, cây cỏ xung quanh bị biến dạng qua màn sương thành những thứ hình thù quái dị, thỉnh thoảng còn có bóng một vài loại động vật nào đó nhanh chóng xẹt qua trước mặt.