Chương 80: Tứ đức của Văn Nhược

Cái gọi là “lời là tiếng của lòng” (ngôn vi tâm thanh), quả thật không sai. Bài giảng của Tuân Úc vừa rồi chẳng qua là mượn việc giải thích Kinh Dịch để bày tỏ chí hướng và đạo lý mà mình tuân theo. Ông đã sáng tạo khi đề xuất việc dung hợp Ngũ Hành vào bốn đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, và còn đem lại những hàm nghĩa sâu xa hơn, rõ ràng mở rộng ra thành đức hạnh của người quân tử, thể hiện rằng chỉ những ai theo đúng chuẩn mực ấy mới có thể xứng danh quân tử. Đồng thời, ông còn đề xuất rằng sứ mệnh của quân tử chính là: hóa vật, thuận thiên, lợi dân, định tục. Cuối cùng, ông dùng hình ảnh của Văn Vương và Trụ Vương để ám chỉ việc trị quốc, chỉ ra rằng chỉ những vị quân chủ có tứ đức mới hưng thịnh, còn những ai không có tứ đức ắt suy vong.

Lúc này, Tuân Úc như thanh bảo kiếm vừa ra khỏi vỏ, ánh sáng sắc bén của ông lập tức bộc lộ… Phía dưới, người nghe đều xôn xao. Một phần bởi vì lời của Tuân Úc vô cùng mới mẻ, lại trực tiếp châm biếm chính sự, rất hợp thời thế. Mặt khác, còn bởi sự thay đổi quá lớn trong thái độ và phong thái của Tuân Úc khiến nhiều người khó mà tin nổi. Trước kia, khi Tuân Úc còn trẻ, cha ông là Tuân Củng vì e sợ quyền lực của bọn hoạn quan mà đã gả Tuân Úc cho con gái của Thường Thị Tang Hành! Là vợ chứ không phải thiếp. Ở thời Hán, khi chủ nhân không ở nhà, vợ có quyền sinh sát và cai quản tài chính, còn thiếp thì chỉ như đồ chơi, chẳng có quyền hành gì. Chuyện này nếu xảy ra với người khác, nhất là những kẻ luôn tự xưng là thanh lưu, thì không đời nào chấp nhận – làm sao có thể liên hôn với một hoạn quan mà giữ được danh tiếng trong sạch suốt đời?

Theo lý, Tuân Úc ít nhất cũng phải liên hôn với một gia tộc thanh lưu khác, sao lại có thể rước con gái của một hoạn quan vào nhà? Nhưng Tuân Úc cứ thế, chẳng nói chẳng rằng, chịu đựng mà lấy nàng. Mọi người đều thở dài cho rằng Tuân Củng thật ngắn hạn, không chỉ hủy danh tiếng của chính mình mà còn liên lụy đến cả Tuân Úc. Đồng thời, họ cũng cho rằng Tuân Úc thực chất chỉ là một kẻ nhu nhược, không làm nên trò trống gì. Không ngờ rằng hôm nay, khi đứng trên cao đài, Tuân Úc lại không hề sợ hãi, thậm chí còn thốt ra những lời khiến người nghe phải kinh ngạc.

Tuy nhiên, Phỉ Tiềm lại không cảm thấy quá ngạc nhiên về lý luận của Tuân Úc. Bởi lẽ theo lịch sử mà xét, Tuân Úc quả thật luôn tuân theo Tứ Đức trong cách hành xử, và khi Tào Tháo vi phạm Tứ Đức, có ý muốn phế bỏ Hán Hiến Đế, Tuân Úc đã tỏ rõ thái độ phản đối, và cuối cùng hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp mà bị Tào Tháo hại chết. Một quân tử có nội hàm sâu sắc, đó là hình tượng mà Phỉ Tiềm gắn cho Tuân Úc.

Nhưng không phải ai cũng nghĩ vậy. Có người cho rằng lời nói của Tuân Úc hôm nay có phần khoe khoang, gây chú ý. Một lão giả đứng lên, kiêu ngạo khoanh tay, cao giọng nói: “Càn giả, thiên kiên dã. Nhân lực hữu cùng, nhi thiên kiên vô cùng. Duy hữu thánh nhân tắc chi, Văn Vương thiện, pháp thiên chi dụng; Trụ ác, pháp thiên chi thể. Thử nãi thiên biến vô thường, ứng hóa vô cùng, nhân bất danh thiên dã! Hà hữu Tứ Đức chi thuyết?”

Mọi người nhìn kỹ, người đó chính là Tuân Uông, em trai Tuân Sảng, được gọi là Tuân gia Ngũ Long. Vốn dĩ, Tuân Uông được sắp xếp để diễn thuyết đầu tiên, theo bối phận thì là thúc phụ của Tuân Úc, còn về danh vị thì là một học giả kinh điển lâu năm. Nhưng cuối cùng lại bị Tuân Úc thay thế, tuy là mệnh lệnh của gia chủ Tuân Sảng, nhưng trong lòng Tuân Uông không khỏi bực bội, nên là người đầu tiên đứng ra bắt bẻ.

Quan điểm của Tuân Uông rất hợp với tư tưởng Nho gia, đại ý rằng sự thay đổi của con người không thể theo kịp sự biến đổi của trời. Chỉ có thánh nhân, tức là thiên tử, mới có thể tuân theo sự biến đổi của thiên đạo. Văn Vương đã thành công vì hiểu được ý nghĩa của thiên đạo, còn Trụ Vương chỉ bắt chước hình thức mà không nắm bắt được tinh thần, nên thất bại. Thiên đạo không ngừng biến đổi, thiên tử và dân chúng nên thuận theo, không thể bó buộc. Thế thì, làm gì có chuyện thiết lập Tứ Đức? Bởi trong quan niệm Nho gia, thiên tử đại diện cho trời, là thần thánh, bất luận Văn Vương hay Trụ Vương đều là thiên tử, điểm khác biệt duy nhất là ai cảm nhận được ý trời. Ai hiểu ý trời thì thành công, ai chỉ bắt chước hình thức thì trời sẽ tự nghĩ cách thay đổi. Nên việc Tuân Úc đòi hỏi thiên tử phải tuân theo Tứ Đức, trong mắt người như Tuân Uông, là điều ngớ ngẩn.

Lời của Tuân Uông vừa dứt, có không ít người lên tiếng đồng tình. Trên đài, Tuân Úc cũng hướng về Tuân Uông mà cung kính cúi chào, gần như không ngừng lại chút nào, lập tức tiếp lời ông: “Phu thiên chi thánh, chí thành vô tức, bất khả thiên hình, cận khả thiên dụng, thị cố càn dương giao hào, các đắc kỳ vị, quân tử thượng sát thiên dụng, hạ vận thiên thể, nhất ngôn nhất hành, mạc bất như thị, Tứ Đức chi thuyết, tịch dịch nhược lệ, sở hành vô cữu.”

—Trời là thần thánh, không thể mô phỏng hình thái của trời, chỉ có thể hiểu dụng ý của trời. Do đó, mỗi hào trong quẻ Càn đều có vị trí riêng, như người quân tử phải hiểu ý của trời, vận dụng cho việc điều hành vạn vật. Tứ Đức của ta đề ra chính là để quân tử tự cảnh tỉnh về hành vi, để không phạm sai lầm.

Tuân Úc khéo léo chuyển Tứ Đức từ điều Tuân Uông cho là yêu cầu ngông cuồng với trời, thành một tiêu chuẩn cho quân tử tự răn mình, tự nhiên ăn khớp với đại nghĩa Nho gia, làm cho Tuân Uông không còn chỗ để công kích. Tuân Uông hừ lạnh một tiếng, không tìm ra sơ hở, đành ngồi xuống một cách miễn cưỡng.

Tuân Sảng lúc này không vào hội trường, chỉ đứng bên ngoài lắng nghe, nghe đến đây liền mỉm cười, quay người rời đi – quả nhiên, việc chọn Tuân Úc là chính xác, một khi ông đã khống chế được tình hình, tự nhiên không cần lo lắng gì nữa.

Trong hội trường, Phỉ Tiềm nhìn sang Tảo Tư bên cạnh đang chăm chú nghe, ánh mắt lộ vẻ ngưỡng mộ, còn bản thân chỉ nghe mà không hiểu, thầm cảm thấy khổ sở. Tuy vậy, Phỉ Tiềm cũng hiểu rõ rằng buổi diễn thuyết này đánh dấu việc Tuân Úc với tư cách người đưa ra thuyết Tứ Đức, sẽ trở thành trung tâm bàn luận trong giới sĩ tộc, danh vọng tất nhiên sẽ tăng vọt. Aizz, đến khi nào ta mới có thể vươn lên như vậy nhỉ… Sao không giảng về triết lý Mác-Lênin đi, dù gì năm xưa ta cũng từng cày cuốc qua để đạt được điểm sáu mươi… Thật sự không được thì giảng mấy thứ như lý luận mâu thuẫn đối lập từ Hegel, hay về sự thống nhất… Ít ra còn có chút vốn để trưng ra khoe khoang…

Phỉ Tiềm đang suy nghĩ vẩn vơ thì bỗng chốc mặt biến sắc, Tuân Úc giảng lâu thế này rồi, liệu có sắp xếp nghỉ giữa chừng không, cho một khoảng để giải lao? Buổi sáng ta uống đến hai bát cháo kê, giờ tất cả đều đang xuống bụng, thật không ổn chút nào…

Tuân Úc tuân thủ Tứ Đức, cuối cùng cũng vì Tứ Đức mà phải bỏ mạng, nếu không đến tầm địa vị của ông, chỉ cần không phản đối Tào Tháo xưng đế thì Tào Tháo hẳn sẽ không động đến ông. Đáng tiếc, ông không thể vượt qua được rào cản trong lòng mình… Người xưa thực ra rất thành thật, lời thề một khi lập ra thì giữ trọn cả đời… Đâu như ngày nay, chẳng những người thường mà ngay cả triều đình cũng nói trở mặt là trở mặt, khi sáu mươi tăng lên thành sáu mươi lăm, vẫn có người bảo bảy mươi cũng có thể tiếp tục làm việc được…